ﻶ Hải Vân Sơn Trangﻶ Dạo Hải Vân Sơn Trangﻶ Liên Lạc Hải Vân Trang Chủﻶ Hải Vân Sổ Lưu Niệm

"Thiên nhai thử lộ tầm tri kỷ

Chỉ địa vô phương mạc cố nhân..."

闕名 - Khuyết danh (Việt Nam)

Bích Câu Kỳ Ngộ

 

(1) Trăm Năm Cũng Một Chữ T́nh

Mấy trăm năm một chữ t́nh,
Dưới trời ai kẻ lọt vành hóa nhi.

Cơ duyên ngẫm lại mà suy,
Trời Nam nào có xa ǵ cơi Tây.
Tương duyên kỳ ngộ xưa nay,
Trước kia Lưu, Nguyễn, sau này Bùi, Trương.
Ḱa ai mê giấc Đài Dương,
Mây mưa là chuyện hoang đường biết đâu?

Cảnh Bích Câu

Thành Tây có cảnh Bích Câu,
Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao!
Đua chen Thu Cúc, Xuân Đào,
Lựu phun lửa hạ, Mai chào gió đông.
Xanh xanh dăy Liễu, ngàn Thông,
Cỏ lan lối mục, Rêu phong dấu tiều.
Một vùng non nước quỳnh giao,
Phất phơ gió trúc, dặt d́u mưa hoa.

Trần Công Tử Tú Uyên

Triều Lê đương hội thái ḥa,
Có Trần công tử tên là Tú Uyên.
Phúc lành nhờ ấm xuân huyên,

Số trong tài mạo kiêm tuyền kém ai.
Thông minh sẵn có tư trời,
C̣n khi đồng ấu măi vui cửa Tŕnh.
Trải xem phong cảnh hữu t́nh,
Lâm toàn pha lẫn thị thành mà ưa.
Liền khu trùm một lầu thơ,
Lau già chắn vách, trúc thưa giũ rèm.
Thừa hư đàn suối ca chim,
Nửa song đèn sách, bốn thềm gió trăng.
Của chung huy hoắc đâu bằng,
Chứa kho vàng cúc, chất từng tiền sen.
Khắp so trong cơi ba ngh́n,
Yên hà riêng nửa, lâm tuyền chia đôi.
Thú vui bốn bạn thêm vui
Khắp trong bể thánh, đủ ngoài rừng tao
 

Nỗi Buồn Tú Uyên Khi Cha Mẹ Mất
Thoi đưa ngày tháng sương sao,
Ngô vừa rụng lá lại đào nẩy hoa.
Trời hôm giục bóng dâu tà,
Xuân già e tuyết, huyên già ngại sương .
Năo người thay! nỗi tang thương,
Trông vùng mây trắng ngất đường non xanh.
Vai c̣n đôi gánh thâm t́nh,
Bầu Nhan đă sạch sành sanh c̣n ǵ!
Mấy phen hạ tới thu về,
Lọt mành nắng rơ, quanh hè tuyết xây.
Chiều trời lạnh ngắt hơi may,
Mai tàn trước gió, liễu gầy sau sương!
Lơ thơ nửa mái thảo đường,
Phên thềm lọt gió, vôi tường thấm mưa!
Phong quang lạ khác dấu xưa,
Ao tù sen rũ, rào thưa, cúc cằn.
 

Tú Uyên Nổi Tiếng Thi Văn
Sinh từ gặp bước gian truân,
Vinh khô gọi nếm mùi Trần chút chơi.
Cùng thông dù mặc có trời,
Nguôi dần bể khổ, san vơi mạch sầu.
Lôi thôi cơm giỏ nước bầu,
Những loài yến tước biết đâu chí hồng .
Thề xưa đă nặng với ḷng,
Dẫu sau trắng nợ tang bồng mới thôi.
Ao nghiên giá bút thảnh thơi,
Tây hồ tiên tích mấy nơi phẩm b́nh.
Thi hào dậy tiếng Phượng thành,
Vào phen Lư, Đỗ, nức danh Tô, Tào.
Ngửa nghiêng lưng túi phong tao,
Nước, non, mây, gió, chất vào c̣n vơi.
Châu ken chữ, gấm thêu lời,
Vàng gieo tiếng đất, hạc khơi bóng thuyền.
Đă người trong sách là duyên,
Mấy thu hạt ngọc Lam điền chưa giâm.
Lửng lơ chiếc lá doành nhâm,
Cắm thuyền đợi khách, ôm cầm chờ trăng.
 

Tú Uyên Đi Xem Hội Chùa

Ngọc Hồ có đám chay tăng,
Nức nô cảnh Phật, tưng bừng hội Xuân.
Dập d́u tài tử giai nhân,
Ngổn ngang mă tích xa Trần thiếu ai.
Thưởng Xuân sinh cũng dạo chơi,
Thơ lưng lưng túi, rượu vơi vơi bầu.
Mảng xem cây phạm thú mầu,
Vầng kim ô đă gác đầu non tê.
Tiệc thô ai nấy cùng về,
Gió chiều lay bóng hoa Lê la đà.
Bân cầu đàn lũ năm ba,
Thần tiên trước mắt ai là kẻ hay!
Sinh vừa tựa liễu nương cây,
Lá hồng đâu đă thổi bay lại gần.
Mắt coi mới tỏ dần dần,
Mấy ḍng chữ viết ba vần bốn câu.
Trông qua lặng ngắt giờ lâu,
Ấy ai thả lá doành câu ghẹo người.
Vừa toan họa lại mấy lời,
Gió hương đâu đă bay hơi nồng nàn.
 

Tú Uyên Gặp Mỹ Nhân

Thấy người trước cửa tam quan,
Theo sau ba bảy con hoàn nhởn nhơ.
Lạ lùng con mắt người thơ,
Hoa c̣n phong nhụy, trăng vừa tṛn gương.
Rành rành xuyến ngọc thoa vàng,
Quần Nghê tha thướt, sóng Tương rượm rà.
Mỉa chiều nét ngọc làn hoa,
Cá ch́m mặt nước, Nhạn sa lưng trời.
Gần xem vẻ mặt thêm tươi,
Mùi hương thoang thoảng thơm rơi ít nhiều.
Làn thu lóng lánh đưa theo,
Năo người nhăn chút lông nheo cũng t́nh.
Vốn mang cái bệnh Trương sinh,
Gặp người nghiêng nước nghiêng thành biết sao?
Đưa t́nh một nét sóng đào,
Dẫu ḷng sắt đá cũng xiêu, lọ người.
Nhân duyên ví chẳng tự trời,
Từ lang chưa dễ lạc vời non tiên.
 

Tú Uyên Đối Thoại Với Mỹ Nhân
Dù mặt lạ đă ḷng quen,
Cả liều đến gốc thu thiên ướm nàng:
"Quá vui nên trót sỗ sàng,
"Thử t́nh cho kẻo bẽ bàng với hoa."
Khách rằng: "Trong hội Vô già,
"Cửa không, ngàn giác đấy là từ bi .
"Gió bay những tiếng thị phi,
"Trót lầm thôi có trách ǵ đến ai."
Giọng kiều nghe lọt vào tai,
Đă gần bể sắc, khôn vơi sóng t́nh.
Thưa rằng: "Chút phận thư sinh,
"Đèn từ soi đến tấm thành với nao!
"Chi viên nỡ hẹp ḥi sao,
"Mở đường phương tiện chút nào được chăng?"
Rằng: "Đây về đạo kim thằng,
"Trăng hoa sao khéo nói năng những lời.
"Bến từ có hẹp chi ai,
"Dốc đem thuyền giác độ người bến mê.
"Ngán cho bên cơi bồ đề,
"Phải đường ong bướm đi về đấy sao?
"Đoá hoa sẵn nhạc vàng treo,
"Tiếng oanh chỉ để lao xao trên cành."
Lặng nghe lọt đến giọng t́nh,
Ḷng tham quanh cả bên ḿnh mỹ nhân.
Rằng: "Đây lầm xuống mê tân,
"Tiền duyên xin để kim thân tu đền.
"Ba sinh cho vẹn mười nguyền,
"Nhờ tay kim tướng, đưa duyên xích thằng.
"Gậy linh mượn phép cao tăng,
"Phá thành sầu khổ cho bằng mới cam.
"Chày sương đợi khách cầu Lam,
"Phẩm tiên may bén tay phàm biết đâu.
"Nước bèo dù có duyên sau,
"Bên sông thử bắc nhịp cầu từ đây."
 

Tú Uyên Nghi Ngờ Khi Mỹ Nhân Biến Mất

Người c̣n cợt gió, đợi mây,
Gót tiên khách đă trở giầy làm thinh.
Ngóng theo đến Quảng Văn Đ́nh,
Bóng trăng trông đă trên cành lướt qua.
Mượn người thăm hỏi gần xa,
Hồng Lâu Tử Các đâu mà đến đây?
Hay là quán nước, làn mây,
Gió xuân thổi xuống chốn này đấy sao?
Dám xin trỏ lối cho nao,
Tới non Ngọc dễ ai nào về a!
Ơn ḷng nhắm liễu thăm hoa,
Biết đâu sắc sắc vẫn là không không
Thoắt thôi lẩn bóng ngàn thông,
Hương trầm c̣n thoảng cánh hồng đă khơi.
Xe loan gió cuốn lưng trời,
Tiên về động bích, t́nh rơi cơi Trần.
Ngửa trông năm thức mây vần,
Hồn chưa đến chốn non thần đă mê.
 

Tú Uyên Mang Bệnh Tương Tư

Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc ḥe chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn c̣n quanh quẩn người tiên khéo là?
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh!
Có khi gẩy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra t́nh hoài nhân.
Cầu hoàng tay tựa nên vần,
Tương Như ḷng ấy, Văn Quân ḷng nào.
Có khi mượn chén rượu đào,
Tiệc mồi chưa cạn, ngọc dao đă đầy.
Hơi men chưa nhấp đă say,
Như xông mùi nhớ, như gây giọng t́nh.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mơ quyên điểm nguyệt, chuông kềnh nện sương.
Ỏi tai những tiếng đoạn trường,
Lửa t́nh dễ nguội, sông Tương khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăng tàn,
Tiếng quyên hót sóm, trận nhàn bay khuya.
Ngổn ngang cảnh nọ t́nh kia,
Nỗi riêng, riêng biết, dăi dề với ai!
Vui xuân chung cảnh một trời,
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư.
Ḷng yêu tay tả nên thơ,
Mảnh t́nh phong với mảnh tờ đưa theo.
Ả Hằng ví nặng ḷng yêu,
Rẽ mây mở lối tinh thiều cho nao!
Hỏi cho giáp mặt hoa đào,
Vườn xuân chẳng lẽ ngăn rào măi ru!
 

Hà Sinh Đến Thăm, Tú Uyên Kể Rơ Sự T́nh

Đồng song có gă họ Hà,
Ướm t́nh mới hỏi lân la gót đầu.
Cớ sao chuốc năo mua sầu,
Bữa thường ngao ngán như màu nhớ ai?
Bấy nay vắng vẻ thư trai,
Vóc sương nghe đă kém vài bốn phân.
Nguồn cơn ngỏ với cố nhân,
Họa may sẽ giúp được phần nào chăng?
Điều đâu thực khéo như rằng,
Nói vào hợp ư, khôn bưng ḷng người.
Song mà t́nh chẳng riêng ai,
Bệnh tương tư có trải mùi mới hay.
Người ngu đấng thánh xưa nay,
T́nh chung chẳng ở ṿng này hay sao?
Nói dù nghe cũng thế nào,
Lặng dù, nghe cũng nao nao chẳng đành.
Bệnh căn khôn lẽ dấu quanh,
Cầm tay mới kể đinh ninh mọi điều.
Nói bao nhiêu, tưởng bấy nhiêu,
Ghê cho sắc ngọc dễ xiêu ḷng vàng.
Những là tiếc phấn say hương,
Nên ṿ lưới nhện mà vương tơ tằm.
Sầu dường bể, khắc như năm,
Xương mai chịu được mấy lăm mà gầy!
Ngh́n xưa âu cũng thế này,
Gánh sầu san sẻ ai đầy ai vơi?
Lạ cho cái giống hương trời,
Biết năm biết thuở, biết đời nào quên.
 

Hà Sinh Nhắc Chuyện Lê Thánh Tông Gặp Tiên

Hà nghe nói hết căn nguyên,
Nghĩ xem chuyện ấy quả nhiên rằng kỳ.
Chẳng thần nữ, cũng tiên phi,
Duyên xưa c̣n có chút ǵ hay không.
Lá hồng ra mối chỉ hồng,
Nước bèo kia cũng tương phùng có phen.
Ngọc Liên nghe có Hóa Tiên,
Thánh Tông thuở trước qua miền ấy chơi.
Lầu chuông bỗng gặp một người,
Ngâm câu thần kệ, vịnh bài quốc âm.
Ngự khen tú khẩu cẩm tâm,
Mến riêng v́ sắc, yêu thầm v́ thơ.
Rước về rắp gạn tóc tơ,
Gót tiên bỗng thoắt bao giờ c̣n đâu?
Mười lăm năm nọ chưa lâu,
C̣n di tích đó là lầu Vọng Tiên
Lạ tai nghe những chẳng tin,
Thử coi cho thấy nhỡn tiền mà ghê.
Nhận ra trong lá thơ đề,
Bút tiên chi để điểm mê ḷng phàm.
Những là én bắc nhạn nam,
Cánh hoa mặt nước dễ làm sao đây?
Tuy rằng cách trở đông tây,
Dẫu xa, xa cũng có ngày gần nơi.
Gác xuân cách mấy dặm khơi,
Nhân duyên đành để gió trời thổi đưa.
 

Hà Sinh Khuyên Không Nên Mơ Tưởng

Hà rằng: "Hương lửa duyên xưa,
"Có khi t́nh trước c̣n chờ hội sau.
"Đành rằng kỳ ngộ nan cầu,
"Biết đâu non thẳm doành sâu mà t́m.
"Biết đâu nhắn cá gửi chim,
"Vớt trăng dưới nước, ṃ kim trong doành.
"Biết đâu ả Tố, nàng Quỳnh,
"Cớ chi nhớ quẩn sầu quanh khéo là.
"Chuốc mua lấy nợ phong hoa,
"Mối tơ phó mặc trăng già phải nao!
"Xuân sang xuân đă già nào,
"Chờ sau mai nở th́ đào chẳng lâu."
Vắt tay ngâăm nghĩ xưa sau,
Như ai cất hẳn gánh sầu thoảng không.
Nói cười tươi tắn thong dong,
Đổi ḷng phong nguyệt ra ḷng vân thiên.
Thôi mong khách, lại chờ tin,
Thư hồng ngày mỏi, chăn uyên đêm dài.
Bâng khuâng một mối viễn hoài,
Khi trong sân tuyết, khi ngoài trời tây.
Ngày thường ngắm cảnh am mây,
Người buồn xui cả cỏ cây cũng buồn.
C̣n trời, c̣n nước, c̣n non,
Mây xanh nước biếc vẫn c̣n như xưa.
Hoa đào c̣n đó trơ trơ,
Mà người năm ngoái bây giờ là đâu?
Vù vù gió thổi rèm lau,
Càng như chất mối tơ sầu vào thêm.

Tú Uyên Xem Bói Và Nằm Mộng

Chạnh đâu nhớ chuyện bốc tiêm,
Tới đền Bạch Mă, giải niềm cầu duyên.
Khấn rồi ra góc tây hiên,
Nén hương tắt đỏ, ngọn đèn nhỏ to.
Bóng trăng vừa xế cành ngô,
Giấc hoè d́u dịu, chăn cù êm êm.
Thấy người cao mũ rộng xiêm,
Tay cầm thiết bảng, trang nghiêm khác vời.
Trước sân sang sảng dạy lời,
Rằng: "Mai sớm đợi ta ngoài sông Tô.
"Lọ là Oanh Yến hẹn ḥ,
"Cầu Đông sẵn lối, cầu Ô đó mà!"
Vội mừng chợt tỉnh giấc hoa,
Sao vừa nhàn nhạt, trời vừa eo eo.
Ḷng yêu phải bước chân theo,
Xăm xăm ra đó vắng teo thấy ǵ.
Nước trong vắt, cỏ xanh ŕ,
Thạch Kiều thấy đó giai kỳ nào đâu?
 

Gặp Người Bán Tranh, Tú Uyên Mua Về Treo

Trông mong đă suốt giờ lâu,
Ôm cây măi thế, ra màu cũng quê.
Chán chiều thơ thẩn ra về,
Xem t́nh dở tỉnh dở mê nực cười.
Bỗng may lại gặp một người,
Tay mang tranh vẽ, gót dời đường hoa.
Liền tay xin lĩnh xem qua,
Truyền thần một tượng Tố Nga rành rành.
Dịu dàng vẻ đạm màu thanh,
Như người gặp Quảng Văn Đ́nh ngày xưa.
Càng nh́n nét bút càng ưa,
Chàng Vương dẫu mạc bao giờ cho nên.
Mua về treo chốn thư hiên,
Như ai đem ngọc giải phiền lại cho.
 

Tú Uyên Với Bức Tranh Tố Nữ
Mưa hoa khép cánh song hồ,
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi.
Mâm chung một, đũa thêm hai,
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa.
Tưởng gần thôi lại nghĩ xa,
Có khi h́nh ảnh cũng là phát phu.
Êm trời vừa tiết trăng thu,
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng.
Chiều thu như gợi tấm thương,
Ḷng người trông xuống sông Tương mơ h́nh.
Kề bên năn nỉ bày t́nh,
Nỗi nhà thuở trước, nỗi ḿnh ngày xưa.
Từ phen giáp mặt đến giờ,
Những là ngày tưởng đêm mơ đă chồn.
Ấy ai điểm phấn tô son,
Để ai ruột héo, gan ṃn v́ ai?
Buồn đào nửa bước chẳng rời,
Ngh́n vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng,
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!

Chợt trông mấp máy miệng đào,
Mặt hoa hớn hở dường chào Chúa đông.

 

 

(2) Tố Nữ Trong Tranh Hiện Thành Người Thực
Cho hay t́nh cũng là chung,
Khách tiên chưa dễ qua ṿng ái ân!
Một khi ra việc tràng văn,
Trở về đă thấy bát trân sẵn sàng.
So xem phong vị khác thường,
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào.
Bếp trời sẵn đấy hay sao?
Của đâu thấy lạ, ḷng nào chẳng nghi?
Rạng mai cứ buổi ra đi,
Liệu chừng thoắt trở lại nhà thử coi.

Sẩy đâu thấy sự lạ đời:
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhơn nhơn mày liễu mặt hoa,
Này người khi trước, đâu mà đến đây?
 

Tú Uyên Cùng Giáng Kiều Chuyện Tṛ

Nàng đương trang điểm nào hay,
Cửa ngoài sẽ hé cánh mây bước vào.
Vội vàng đánh tiếng ra chào,
Bên mừng, bên lệ, xiết bao là t́nh!
Rằng: "Bấy lâu một chữ t́nh,
"Gặp đây xin tỏ tính danh cho tường."
Nàng rằng: "Bồ liễu phận thường,
"V́ mang má phấn, nên vương tơ điều.

"Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu,
"Tiên thù là hiệu, Giáng Kiều là tên.
"Ba sinh đă nặng v́ duyên,
"Đem thân liễu yếu, kết nguyền đào thơ.
"Nhân duyên đă định ngày xưa,
"Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân.
"Cũng là nhờ đức tiên quân,
"Đóa hoa biết mặt chúa xuân từ rày."
Sinh rằng: "Trong bấy lâu nay,
"Nhắp sầu, gối muộn, có ngày nào ngơi!
"Đă rằng: Tác hợp duyên trời,
"Làm chi cho vẩn ḷng người lắm nau?"
Nàng rằng: "Xin quyết gieo cầu,
"Tấm son thề với trên đầu xanh xanh.
"Dám đâu học thói yến oanh,
"Mặn t́nh trăng gió, nhạt t́nh lửa hương.
"Gieo thoi trước đă dở dang.
"Sau nên nát đá phai vàng như chơi.
"Mái Tây c̣n để tiếng đời,
"Treo gương kim cổ cho người soi chung.
"Lạ chi hoa với gió đông,
"Tiếc hương, vả cũng nể ḷng chim xanh.
"Một mai mưa gió bất t́nh,
"Vóc tàn, nên để yến oanh hững hờ.
"Nghĩ trong thân phận yếu thơ,
"Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau?"
 

Giáng Kiều Dùng Phép Tiên Biến Hóa

Nói thôi rút chiếc trâm đầu,
Biến h́nh liền thấy đôi hầu theo ra.
Tưng bừng sắm sửa tiệc hoa,
B́nh trầm đưa khói, chén hà đậm hương.
Giọng t́nh sánh với quỳnh tương,
Giả say sinh mớ toan đường lần khân.
Thưa rằng: "Túc trái tiền nhân,
"Không dưng dễ xuống cơi Trần làm chi.
"Song c̣n mấy bạn tương tri,
"Bấy lâu chưa có chút ǵ là đâu.
"Trước xin từ biệt cùng nhau,
"Chữ duyên này trở về sau c̣n dài."
Nghe lời nói cũng êm tai,
Ch́u ḷng chi nỡ ép nài mưa mây.
Trước sân mừng cuộc tỉnh say,
Tiếng vui đăi nguyệt, tiệc bày đối hoa.
Bóng mây bỗng kéo quanh nhà,
Thảo am thoát đă đổi ra lâu đài.
Tường quang sáng một góc trời,
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Người yểu điệu, khách thanh tao,
Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai.
Lả lơi bên nói bên cười,
Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang.
Đong đưa khoe thắm đua vàng,
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha.

Tú Uyên Cùng Giáng Kiều Kết Duyên
Yến tân chuốc chén năm ba,
Người c̣n vui tiệc, khách đà cáo say.
Kẻ ra nương bánh xe mây,
Người vào trong gấm vui vầy bạn loan.
Lả lơi cười với hoa nhan,
Trải chăn thúy vũ, buông màn phù dung.
Pḥng tiên d́u dặt chén đồng,
Rèm tương giủ thấp, trướng hồng treo cao.
Ngẩn ngơ hé cửa động đào,
Mây tuông bể ái, mưa rào sông ân.
Mấy vàng đổi được khắc xuân,
Xưa nay tài tử, giai nhân lạ ǵ?
Cho hay thiên tải giai kỳ,
Trăng già xe đă phải th́ đào non.
Cũng là môt mốt tơ son,
Năm trăm năm cũng vuông tṛn từ đây.
Đàn cầm từ thuở bén dây,
Khi đằm thắm đă, bỏ ngày nhớ nhung!
Khi gió mát, lúc trăng trong,
Bầu tiên chuốc rượu, tơ đồng nối dây.
Khi tuyết xuống, lúc hương bay,
Câu thơ trên gác, bàn vây bên b́nh.
Tài hoa quốc sắc khuynh thành,
Cầm, kỳ, thi, tửu, đủ vành Trần duyên.
Ngươi tao nhă, khách thuyền quyên,
Phong, hoa, tuyết, nguyệt, là tiên trên đời.
Nhà lan sum họp ban mai,
Đă trong tần tảo, lại ngoài ty ca.
 

Giáng Kiều Can Không Nổi Tú Uyên Say Rượu

Dần dần năm đă kể ba,
Hạnh và độ thắm, Liễu và phần son.
Duyên ai tính đă vuông tṛn,
Nào hay nợ trước chút c̣n dở dang.
Trần Sinh từ thuở gặp nàng,
Vui vầy mê mải nên càng quá xưa.
Một ngày say mấy canh thừa,
Khuyên can nàng mới ngỏ thưa ít nhiều.
Rằng: "Xin gửi một hai điều,
"Thân trăm năm nỡ bỏ liều thế ư!
"Thiếu ǵ những chuyện ngày xưa,
"C̣n bia miệng đó trơ trơ chưa ṃn!
"Ấy ai dỗi gót bên non,
"Bóng trăng Thái Thạch là hồn ai say!
"Ví c̣n lầm trước chưa hay,
"Th́ đem gương ấy sau này mà soi."

 

Giáng Kiều Bị Ngược Đăi, Giận Bực Bỏ Đi
Ngán thay khuyên nhủ đến lời,
Nưóc kia dội đá có mùi ǵ đâu.
Thôi ngày trọn, lại đêm thâu,
Cạn chung Lư Bạch, nghiêng bầu Lưu Linh.
Ma men quanh quẩn bên ḿnh,
Cho đàn trễ phím, cho b́nh nhạt hương.
Mải mê say tỉnh tâm trường,
Liệu bài nàng lại t́m đường van lơn.
Trái tai vả lại ngứa gan,
Đang tay nỡ dập hoa tàn tả tơi.
Dây đồng đứt hẳn làm đôi,
Cánh bèo theo ngọn nước trôi cũng rầu!
Nàng càng tầm tả tuôn châu,
Ngán nhân t́nh khéo ra màu thắm phai.
Rằng: "Thôi, tôi đă quá lời,
"Xui ḷng nghĩ lại một hai kẻo mà..."
Sinh đang vui chén la đà,
Vẩn vơ tính quỉ hồn ma biết ǵ.
Nói thôi, nói cũng chi chi,
Nghe ra tiếng nặng như ch́, giọng say!
Nàng rằng: "Duyên nợ bấy nay,
"Thương ôi nước đổ bốc đầy được đâu.
"Tiếc cho nỗi vợ chồng Ngâu,
"Doành thu nên để bắc cầu mấy phen!
"Sá chi nữa, cái hoa hèn,
"Nghĩ làm chi nữa cái duyên cũ càng.
"Đă ḷng rẻ thúy chia hương,
"Đành ḷng rẫy ngọc, ruồng vàng th́ vâng.
"Thôi thôi, thôi cũng cầm bằng,
"Tơ hồng phó trả bà trăng cho rồi."
Lạy rồi, đứng lại sân ngoài,
Bên bàn say tỉnh mặc người ngồi trơ.

Sau Khi Tỉnh Ra, Tú Uyên Hối Hận
Sinh c̣n đương cuộc nào ngờ,
Tỉnh dần dần lại, bây giờ biết sao?
Biết phương nào, biết chước nào,
Có chăng c̣n lúc chiêm bao họa là!
Non thần mấy dặm đường xa,
Khói mây man mác dễ mà hỏi, vay!
Cát vàng bụi bạc xa bay,
Mây trên mặt đất, non xây chân trời.
Ngắt chừng bể thẳm doành khơi,
Đường xa bao ngả t́nh dài bấy nhiêu.
Buồn trông quăng vắng đường queo,
Gió lay nhẹ lá, sương gieo nặng cành.
Buồn trông cửa bể mông mênh,
Con thuyền thấp thoáng cuối ghềnh ngổn ngang.
Buồn trông cuối phố hàng đường,
Cánh hồng man mác, hạt sương đầm đ́a.
Buồn trông theo giải Tô Khê,
Chim kêu bụi rậm, Trâu về đồng không.
Cảnh buồn như giục tấm ḷng,
Lại thêm vấn vít mấy ṿng tơ vương.
Ấy ai phải vía chàng Trương,
Non tiên cách một bước đường nên xa.
Hay là lỗi sổ Hằng Nga,
Đêm đông ṿ vơ bóng tà sao thưa.
Nghĩ t́nh nên những ngẩn ngơ,
Ai lên đường ấy, ai chờ đợi ai?
Dần dần trăng tối gió may,
Nghĩ sao cho xiết sự đời phôi pha!
Trêu ngươi chi bấy trăng già,
Xe dây mỏng mảnh ỡm ờ mà chơi.
Cho nên cách trở đôi nơi,
Hoa trôi cửa động, nước xuôi cơi Trần.
Nghĩ riêng, riêng những ăn năn,
Phấn Hồ, c̣n đó, tinh thần nào đâu?
Càng thêm ngao ngán trăm chiều,
Giấc nào nào nhắp, bữa nào nào ngon.
Xác ve ngày một héo ṃn,
Xác gan con vượn, mơ hồn cái quyên.
Tả ḷng tay thảo mười thiên,
Mấy câu mấy chữ, mấy ngh́n câu rơi.

Hà Sinh Khuyên Giải Tú Uyên

Hà Sinh phải buổi sáng chơi,
Xót t́nh khế hữu liêu bài giải khuyên:
"Biết đâu rằng quỉ rằng tiên,
"Một may một rủi thôi phiền năo chi.
"Dù tiên duyên đă măn kỳ,
"Chờ cho duyên hợp châu về ṃn hơi!
"Hăy xin gắng gượng làm tươi,
"Gánh sầu trút cả cho người phải nao!
"Lỡ ra khi đến thế nào,
"Mà cho mắt tục trông vào sao nên."
Rằng: "Xưa trót đă nặng nguyền,
"Phải đem vàng đá mà đền mới xuôi.
"Cũng đành cho thế gian cười,
"C̣n hơn cam phụ với người tri âm.
"Duyên xưa âu chẳng se lầm,
"Bao giờ kéo hết tơ tằm mà hay!
"Công đâu nghĩ mướn lo vay,
"Dẫu ṃn bia đá khôn lay tấc ḷng."
Xem chiều nói cũng như không,
Hà Sinh ra ư sượng sùng cáo lui.

 

Tú Uyên Toan Tự Ái, Giáng Kiều Bỗng Hiện Về

Khách đà về chốn tây trai,
Một ḿnh một bóng đứng ngồi sao yên.
Quyết t́m khắp nước non tiên,
Đem duyên giai lăo đính nguyền lai sinh.
Giải là giủ sẵn bên ḿnh,
Cũng liều trắng nợ, trần t́nh thử xem!
Gió hương đâu bỗng lai rèm,
Bóng hoa đâu đă trước thềm lả lơi.
Đương khi rằng một rằng hai,
Sịch hài nàng đă tới nơi bao giờ!
Mặt trông mặt, hăy ngẩn ngơ,
Nào hay đă tỉnh c̣n ngờ rằng mê.
May sao may khéo đi về,
Chậm chân chút nữa c̣n ǵ là ai!
Mắt nh́n chung cả con ngươi,
Bên ḷng mừng tủi, bên lời hợp tan,
Sinh rằng: "Từ vắng phương nhan.
"Ḷng theo trăng, bể, mây ngàn thiếu đâu.
"Quản bao bể rộng sông sâu,
"Đă toan quên cả cái cầu tư sinh.
"Dám đâu riêng phụ với t́nh,
"Dưới vàng có đất, trên xanh có trời.
"Kể chi những sự đă rồi,
"Sắt son ghi tạc một lời từ đây."
Thưa rằng: "Cầm đă bén dây,
"Có tri âm đó, cuốn dây sao đành.
"Cũng công hương lửa ba sinh,
"Nguồn ân chưa cạn, sóng t́nh c̣n xao."
Đinh ninh gắn bó tất giao,
Trước sau nối gót trướng đào song song.
Vườn xuân hoa đă quen ong,
Từng xa xôi lắm, lại nồng nàn thêm.
Mấy thu gối ấm chăn êm,
Cửa cài then nghĩa, pḥng niêm khóa t́nh.
 

Vợ Chồng Tú Uyên Sinh Chân Nhi

Trên đào vừa thấy tinh oanh,
Gốc giao sớm đă nối cành Quế Yên.
Chân Nhi rơi chút dấu tiên,
Một mai dành để dơi truyền thi thư.
Sinh càng chăm chút sớm trưa,
Cá mong rẽ sóng, rồng chờ tung mây.

 

Giáng Kiều Khuyên Tú Uyên Ṭng Tiên
Đường trời chưa mỏi cánh bay,
Thung dung nàng lại giăi bày một hai.
Rằng: "Coi cho thấu sự đời,
"Giam danh khóa lợi, những người thế gian.
"Trời thu mây hợp, lại tan,
"Ngày xuân hoa nở, hoa tàn mấy năm.
"Gẫm trong tám, chín mươi năm,
"Bóng câu cửa sổ, dễ cầm măi ru!
"Thịt xương gửi đám Diêm Phù,
"Sinh sinh hóa hóa trong ḷ hồng quân.
"Đố ai vượt khỏi ḷng Trần,
"Sông mê ch́m nổi, thế nhân đă đầy.
"Anh hùng những mặt xưa nay,
"Trăm năm nát vớt cỏ cây cũng là.
"Dần dần tháng trọn ngày qua,
"Má hồng mấy chốc đă ra bạc đầu.
"Thôn hoang mấy nắm cổ khâu,
"Ấy nền Đồng Tước, hay lầu Nhạc Dương.
"Chưa đầy một cuộc tang thương,
"Non đồng cũng lở, núi vàng cũng nghiêng.
"Sao bằng ngày tháng cung tiên,
"Vui chung tám cơi, xuân riêng bốn mùa.
"Dọc ngang bốn bể, năm hồ,
"Khắp trong ba cơi chín châu mặc dầu.

"Ra vào kim khuyết quỳnh lâu,
"Treo tranh yên thủy, giắt bầu kiền khôn.
"Đi về tuyết điếm hoa thôn,
"Thông rền nhịp phách, suối tuôn ngón đàn.

"Một này trong thú thanh nhàn,
"Mấy trăm mươn cảnh nhân hoàn đọ sao!
"Khuyên chàng sớm nghĩ lấy nao,
"Gà lồng, hạc nội, bên nào là hơn?"
 

Giáng Kiều Thuyết Pháp, Tú Uyên Tỉnh Ngộ
Mảnh riêng sinh những bàng hoàng,
Tuy say cơi tĩnh, chưa tan ḷng phàm.
Trót xưa túi sách con gươm,
Ví ta Sào, Hứa, ai làm Y, Chu?
Thưa rằng: "Đă tiếng trượng phu,
"Sự đời vinh nhục chi cho bận ḷng.
"Ví ham ngh́n tứ, muôn chung,
"Con chim bay măi cũng trong khuôn trời.
"Làm chi cho bạn tiên cười,
"Ai vui viên hạc, ai vui yên hà.
"Vẩn vơ trong đám phồn hoa,
"Ba mươi sáu động, ai là chủ nhân?"
Sinh nghe tỉnh chuyện tiền nhân,
Rửa dần bụi tục, tỏ dần lối mê.
Rằng: "Xưa Hoàng Đế, An Kỳ,
"Nào phương thoát hóa tu từ sao đây?"
Nàng rằng: "Thiên đạo nhiệm thay,
"Kiều, Tùng xưa cũng thế này chứ sao!
"Vả chàng dự bậc thanh tao,
"Mà xem trong sổ Tiên Tào có tên.
"Học sao cho hết chân truyền,
"Tu sao cho hết tinh huyền th́ tu."

 

Nhận Tiên Phù, Hai Người Cỡi Hạc Lên Tiên
Tay trao một đạo tiên phù,
Một phương hỏa tảo, một ḷ kim đan.
Đường tu sẵn cách khảo bàn,
Rượu Sen thắm giọng, Trà Lan thơm ḷng.
Dần theo gió liễu, trăng đồng,
Thân phàm như chấp cánh lông nhẹ nhàng.
Đương khi lốt trắng điểm vàng,
Tỉnh say Vương Mẫu, mơ màng Lăo Quân.
Mây đưa năm sắc tường vân,

Hạc đâu đôi chiếc, trước sân đón người.
Dang tay cỡi hạc cả cười,
Nhủ Chân Nhi lại nối lời thề xưa:
"C̣n kỳ dậy gió tuôn mưa,
"Mai sau gặp gỡ bấy giờ sẽ hay!"
Nói rồi thẳng rẽ đường mây,
Trông theo cánh hạc về tây tuyệt vời.
Bồng lai riêng một bầu trời,
Màn hoa, cầu đá, mấy nơi thiên thành.

Tác Giả: nhiều giả thuyết và hiện nay không biết tác giả của quyển "Bích Câu Kỳ Ngộ" là ai.
 

Tác Phẩm: truyện kể về một sự tích ở nước Việt, một người học tṛ tên Trần Tú Uyên t́nh cờ gặp một nàng tiên ở đất Bích Câu, v́ thế mới có tên truyện là "Bích Câu Kỳ Ngộ" (sự gặp gỡ lạ lùng ở Bích Câu). Bích Câu (ng̣i biếc) trước thuộc làng Yên Trạch, tổng Yên Ḥa, huyện Thọ Xương, tỉnh Hà Nội; nay là phố Cát Linh. Hiện c̣n đền thờ Tú Uyên, bên cạnh nhà Văn Miếu, là di tích vê câu chuyện này.

Tú Uyên gặp Giáng Kiều, về ốm tương tư (câu: 1 - 272): Trần Tú Uyên, một người học tṛ nghèo, thường yêu thích những nơi thắng cảnh; có lần đến đất Bích Câu, thấy phong cảnh hữu t́nh, bèn dựng ngôi nhà ở đó học. Một hôm, ông đi xem hội làm chay ở chùa Ngọc Hồ (tức chùa bà Ngô ở phố Sinh Từ, Hà Nội). Chiều đến, khi ra về, chợt thấy bay đến trước mặt một bài thơ có ư ghẹo ḿnh. Trông ra cửa Tam quan, thấy một người con gái rất đẹp. Ông bèn đi theo đến Quảng Văn đ́nh (nay là chợ cửa Nam Hà Nội) th́ người ấy biến mất. Từ đấy, Tú Uyên bệnh tương tư.

Tú Uyên kết duyên cùng Giáng Kiều (câu: 273 - 428): Sau Tú Uyên đến đền Bạch Mă (nay là phố Hàng Buồm) cầu mộng. Đêm đến, thần báo mộng kêu sáng hôm sau ra đợi ở Cầu đông (nay ở phố hàng đường) th́ gặp người con gái ấy. Hôm sau ông ra Cầu đông đợi măi đến chiều, nhưng chỉ gặp một ông lăo bán bức tranh một tố nữ giống hệt người đă gặp hôm trước. Ông bèn mua về, treo ở nhà, cứ đến bữa ăn, dọn hai cái bát, hai đôi đũa, mời người trong tranh ăn. Một hôm, ông đi học về, thấy có mâm cơm dọn sẵn, trong bụng sinh nghi. Hôm sau, ông giả vờ đi học nhưng ŕnh ở một chỗ th́ thấy người trong tranh bước ra, ông vội chạy lại hỏi, th́ người ấy thưa và nói tên ḿnh là Giáng Kiều ở trên cung tiên xuống, kết duyên cùng ông. Giáng Kiều làm phép biến nhà của ông thành nguy nga tráng lệ.

Giáng Kiều giận Tú Uyên bỏ đi, sau lại trở về (câu: 429 - 558): Tú Uyên lấy Giáng Kiều được ba năm, thường cứ rượu chè say sưa, nàng can ngăn măi, ông không nghe, lại c̣n đánh đập. Một lần, nàng quá giận, bỏ ông biến đi.  Đến lúc tỉnh, ông đi t́m không thấy, chỉ than khóc thương tiếc. Một hôm buồn quá, ông toan tự vận; th́ nàng Giáng Kiều hiện ra, ông xin tạ tội.

Tú Uyên và Giáng Kiều bay lên cơi tiên (câu: 559 - 648): Từ bấy giờ Tú Uyên đối đăi tử tế với Giáng Kiều. Sau sinh được một đứa con trai đặt tên là Chân Nhi. Nàng Giáng Kiều khuyên ông nên lên cơi tiên, rồi trao cho bùa tiên cùng thuốc tiên để ông tu luyện. Rồi một hôm sau khi dặn ḍ Chân Nhi ở lại cơi trần. hai vợ chồng cùng cỡi hạc bay lên cơi tiên.

HOME

Copyright@www.haivan.8m.net