ﻶ Hải Vân Sơn Trangﻶ Dạo Hải Vân Sơn Trangﻶ Liên Lạc Hải Vân Trang Chủﻶ Hải Vân Sổ Lưu Niệm

"Thường ức Giang Nam tam ngọa lư

Chá Cô đề xứ bách hoa hương..."

王勃 - Vương Bột (Trung Hoa 647-675)

滕王閣序   Đằng Vương Các Tự

南昌故郡,Nam Xương cố quận,

洪都新府。Hồng Đô tân phủ.
星分翼軫,Tinh phân Dực Chẩn,

地接衡廬。Địa tiếp Hành Lư
襟三江而帶五湖,Khâm tam giang nhi đới ngũ hồ,

控蠻荊而引甌越。 Khống Man Kinh nhi dẫn Âu Việt.
物華天寶,Vật hoa thiên bảo,

龍光射牛鬥之墟;Long quang xạ Ngưu Đẩu chi khư;
人傑地靈,Nhân kiệt địa linh,

徐稚下陳蕃之榻。Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp.
雄州霧列,Hùng châu vụ liệt,

俊采星馳,Tuấn thái tinh tŕ,
臺隍枕夷夏之交,Đài hoàng chẩm Di Hạ chi giao,

賓主盡東南之美。Tân chủ tận đông nam chi mỹ.
都督閻公之雅望,Đô đốc Diêm công chi nhă vọng,

綮戟遙臨;Khể kích dao lâm;
宇文新州之懿范,Vũ Văn tân châu chi ư phạm,

襜帷暫駐。Xiêm duy tạm trú.
十旬休暇,Thập tuần hưu hạ,

勝友如雲;Thắng hữu như vân;
千里逢迎,Thiên lư phùng nghinh,

高朋滿座。 Cao bằng măn toạ.
騰蛟起鳳,Đằng giao khởi phụng,

孟學士之詞宗; Mạnh học sĩ chi từ tông;
紫電青霜,Tử điện thanh sương,

王將軍之武庫。Vương tướng quân chi vơ khố.
家君作宰,Gia quân tác tể,

路出名區; Lộ xuất danh khu;
童子何知,Đồng tử hà tri,

躬逢勝餞。Cung phùng thắng tiễn.
時維九月,Thời duy cửu nguyệt,

序屬三秋。Tự thuộc tam thu.
潦水盡而寒潭清,Lạo thuỷ tận nhi hàn đàm thanh,

煙光凝而暮山紫。Yên quang ngưng nhi mộ sơn tử.
儼驂騑於上路,Nghiễm tham phi ư thượng lộ,

訪風景于崇阿。Phỏng phong cảnh vu sùng a
臨帝子之長洲,Lâm đế tử chi Trường Châu,

得仙人之舊館。Đắc tiên nhân chi cựu quán.
層臺聳翠,Tằng đài tủng thuư,

上出重霄;Thượng xuất trùng tiêu;
飛閣流丹,Phi các lưu đan,

下臨無地。Hạ lâm vô địa.
鶴汀鳧渚,Hạc đinh phù chử,

窮島嶼之縈回;Cùng đảo tự chi oanh hồi;
桂殿蘭宮,Quế điện lan cung,

列岡巒之體勢。Liệt cương loan chi thể thế.
披繡闥,Phi tú thát,

俯雕甍。Phủ điêu manh,
山原曠其盈視,Sơn nguyên khoáng kỳ doanh thị,

川澤盱其駭矚。Xuyên trạch hu kỳ hăi chúc.
閭閻撲地,Lư diêm phác địa,

鍾鳴鼎食之家;Chung minh đỉnh thực chi gia;
舸艦迷津,Khả hạm mê tân,

青雀黃龍之軸。Thanh tước hoàng long chi trục.
虹銷雨霽,Hồng tiêu vũ tễ,

彩徹雲衢。Thái triệt vân cù.
落霞與孤鶩齊飛,Lạc hà dữ cô vụ tề phi,

秋水共長天一色。Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc.
漁舟唱晚,Ngư chu xướng văn,

響窮彭蠡之濱;Hưởng cùng Bành Lăi chi tân;
雁陣驚寒,Nhạn trận kinh hàn,

聲斷衡陽之浦。Thanh đoạn Hành Dương chi phố.
遙襟俯暢,Dao khâm phủ sướng,

逸興遄飛。Dật hứng thuyên phi.
爽籟發而清風生,Sảng lại phát nhi thanh phong sinh,

纖歌凝而白雲遏。Tiêm ca ngưng nhi bạch vân át.
淇園綠竹,Kỳ Viên lục trúc,

氣淩彭澤之樽;Khí lăng Bành Trạch chi tôn;
鄴水朱華,Nghiệp thuỷ châu hoa,

光照臨川之筆。Quang chiếu Lâm Xuyên chi bút.
四美具,Tứ mỹ cụ,

二難并。Nhị nan tinh.
窮睇眄于中天,Cùng thê miện vu trung thiên,

極娛遊於暇日。Cực ngu du ư hạ nhật.
天高地迥,Thiên cao địa huưnh,

覺宇宙之無窮;Giác vũ trụ chi vô cùng;
興盡悲來,Hứng tận bi lai,

識盈虛之有數。Thức doanh hư chi hữu số.
望長安于日下,Vọng Trường An vu nhật hạ,

指吳會於雲間。Chỉ Ngô Hội ư vân gian.
地勢極而南溟深,Địa thế cực nhi nam minh thâm,

天柱高而北辰遠。Thiên trụ cao nhi bắc thần viễn.
關山難越,Quan san nan việt,

誰悲失路之人?Thuỳ bi thất lộ chi nhân?
萍水相逢,B́nh thuỷ tương phùng,

盡是他鄉之客。Tận thị tha hương chi khách.
懷帝閽而不見,Hoài đế hôn nhi bất kiến,

奉宣室以何年?Phụng Tuyên thất dĩ hà niên?

嗟乎!Ta hồ!
時運不濟,Thời vận bất tế,

命途多舛。Mệnh đồ đa suyễn.
馮唐易老,Phùng Đường dị lăo,

李廣難封。Lư Quảng nan phong.
屈賈誼于長沙,Khuất Giả Nghị vu Trường Sa,

非無聖主;Phi vô thánh chủ;
竄梁鴻于海曲,Thoán Lương Hồng vu Hải Khúc,

豈乏明時。Khởi phạp minh thời.
所賴君子安貧,Sở lại quân tử an bần,

達人知命。Đạt nhân tri mệnh.
老當益壯,Lăo đương ích tráng,

寧知白首之心?Ninh tri bạch thủ chi tâm?
窮且益堅,Cùng thả ích kiên,

不墜青雲之志。Bất trụy thanh vân chi chí.
酌貪泉而覺爽,Chước Tham tuyền nhi giác sảng,

處涸轍以猶歡。Xử hạc triệt dĩ do hoan.
北海雖賒,Bắc hải tuy xa,

扶搖可接;Phù dao khả tiếp;
東隅已逝,Đông ngung dĩ thệ,

桑榆非晚。Tang du phi văn.
孟嘗高潔,Mạnh Thường cao khiết,

空懷報國之心;Không hoài báo quốc chi tâm;
阮籍倡狂,Nguyễn Tịch xướng cuồng,

豈效窮途之哭!Khởi hiệu cùng đồ chi khốc!
勃三尺微命,Bột tam xích vi mệnh,

一介書生。Nhất giới thư sinh.
無路請纓,Vô lộ thỉnh anh,

等終軍之弱冠;Đẳng Chung Quân chi nhược quán;
有懷投筆,Hữu hoài đầu bút,

慕宗愨之長風。Mộ Tông Xác chi trường phong.
舍簪笏於百齡,Xả trâm hốt ư bách linh,

奉晨昏於萬里。Phụng thần hôn ư vạn lư.
非謝家之寶樹,Phi Tạ gia chi bảo thụ,

接孟氏之芳鄰。Tiếp Mạnh thị chi phương lân.
他日趨庭,Tha nhật xu đ́nh,

叨陪鯉對;Thao bồi Lư đối;
今晨捧袂,Kim thần phủng duệ,

喜托龍門。Hỉ thác Long môn.
楊意不逢,Dương Ư bất phùng,

撫淩雲而自惜;Phủ Lăng vân nhi tự tích;
鍾期既遇,Chung Kỳ kư ngộ,

奏流水以何慚?Tấu lưu thuỷ dĩ hà tàm?

嗚呼!Ô hô!
勝地不常,Thắng địa bất thường,

盛筵難再。Thịnh diên nan tái.
蘭亭已矣,Lan Đ́nh dĩ hĩ,

梓澤丘墟。Tử Trạch khâu khư.
臨別贈言,Lâm biệt tặng ngôn,

幸承恩於偉餞;Hạnh thừa ân ư vĩ tiễn;
登高作賦,Đăng cao tác phú,

是所望於群公。Thị sở vọng ư quần công.
敢竭鄙誠,Cảm kiệt bỉ thành,

恭疏短引。Cung sơ đoản dẫn.
一言均賦,Nhất ngôn quân phú,

四韻俱成。Tứ vận câu thành.
請灑潘江,Thỉnh sái Phan giang,

各傾陸海雲爾。Các khuynh lục hải vân nhĩ.

滕王高閣臨江渚,Đằng Vương cao các lâm giang chử,
佩玉鳴鸞罷歌舞。Bội ngọc minh loan băi ca vũ.
畫棟朝飛南浦雲,Hoạ đống triêu phi Nam Phố vân,
珠帘暮捲西山雨。Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.
閒雲潭影日悠悠,Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
物換星移幾度秋。Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
閣中帝子今何在?Các trung đế tử kim hà tại?
檻外長江空自流。Hạm ngoại trường giang không tự lưu.

Đằng Vương Các Tự

(Minh Tấn dịch)


Nam Xương quận cũ,

Nay Hồng Đô phủ.

Sao chia Dực, Chẩn;

Đất nối Hành, Lư.

Ba sông dài ôm lấy năm hồ,

Xuống Man Kinh tiếp miền Âu Việt.

Vẻ đẹp của trời,

Ánh rồng chiếu tận sao Ngưu, Đẩu.

Đất tạo hào kiệt,

Từ Trĩ dỡ giường của Trần Phồn.

Hùng châu sương giăng,

Tuấn kiệt như sao.

Lầu hào giao nhau vùng Di, Hạ;

Khách, chủ đông nam đều tốt đẹp.

Tiếng thơm cùng đô đốc Diêm công,

Kể kích vang xa.

Vũ Văn đức hạnh nhậm châu mới,

Dừng xe ở tạm.

Mười tuần nhàn hạ,

Bạn tốt như mây.

Ngàn dặm đón chào,

Bạn hiền ngồi khắp.

Rồng phượng bay lên,

Mạnh học sĩ là từ tổ.

Điện chớp sương trong,

Vương tướng quân là vơ khố.

Cha làm thứ sử,

Đến thăm nơi danh.

Trẻ thơ chẳng biết,

Tao ngộ chốn này.

Vào lúc tháng chín,

Đă hơn nửa thu.

Vũng nước cạn và đầm lạnh trong,

Khói đọng lại và núi chiều giăng.

Ngắm xem xe ngựa trên đường,

Lên g̣ cao thưởng phong cảnh.

Đến Trường Châu của con vua,

Gặp người tiên nơi quán cũ.

Lầu cao xanh biếc,

Lên đến trời không.

Gác bay đỏ thắm,

Trông xuống chẳng cùng.

Bến Hạc băi Le,

Uốn quanh đến tận đảo cồn.

Điện Quế cung Lan,

Trùng trùng nhấp nhô như núi.

Mở cửa gấm,

Xem nóc chạm.

Đồng núi thênh thang rộng khắp,

Sông đầm bao la hăi hùng.

Cổng giăng mặt đất,

Những nhà rung chuông, bày vạc.

Thuyền tấp nập bến,

Trục chạm sẻ xanh, rồng vàng.

Vồng tan mưa tạnh,

Rực sáng đường mây.

Ráng chiều cánh vịt trời bay,

Nước thu trời thẳm cùng xây một màu.

Thuyền chài chiều hát vang câu,

Nghe từ Bành Lăi bến đầu vọng vang.

Nhạn bầy lánh rét theo hàng,

Tiếng đâu từ bến Hành Dương vọng về.

Mộng ước xa xôi,

Khoan khoái bay nhanh.

Chợt bừng sáng và gió mát sinh,

Ca nhẹ lắng và mây trắng trầm.

Vườn Kỳ tre xanh,

Bành Trạch chén bốc hơi men.

Sông Nghiệp hoa thắm,

Sáng soi Lâm Xuyên ng̣i bút.

Bốn vẻ đẹp,

Hai khó cùng.

Ngắm xem dạo giữa vùng trời,

Rong chơi hết ngày nhàn rỗi.

Đất xa trời thẳm,

Biết vũ trụ rộng bao la.

Buồn đến vui đi,

Hiểu đủ, thiếu là có số.

Mơ Trường An như nắng hạ,

Chỉ Ngô Hội giữa khoảng mây.

Đất tận cùng và biển nam sâu,

Cột trời cao và sao Bắc chênh vênh.

Quan san chân bước gập ghềnh,

Ai thương cho kẻ đăng tŕnh lỡ chân?

Cánh bèo mặt nước trùng phùng,

Cùng chung cảnh ngộ chạnh ḷng tha hương.

Nhớ vua nào thấy hoài mong,

Phụng Tuyên chiếu chỉ biết tường năm nao?

 

Than ôi!

Thời vận không thông,

Đường đời ngang trái.

Phùng Đường chóng già,

Lư Quảng khó phong.

Giả Nghị khuất chốn Trường Sa,

Nào phải chủ tốt.

Lương Hồng đuổi đến Hải Khúc,

Chẳng thời quang minh.

Nhờ quân tử vui cảnh nghèo,

Thành người do mệnh.

Tuổi già thêm mạnh,

Nên ḷng tự hiểu đầu bạc.

Khốn cùng kiên nhẫn,

Không lảng chí trẻ như mây.

Uống suối Tham ḷng vẫn sáng,

Chốn cùng khổ dạ c̣n vui.

Biển bắc tuy xa,

Theo gió sẽ đến.

Mé đông lướt qua,

Bóng chiều đă muộn.

Mạnh Thường thanh cao,

Không quên tấm ḷng báo quốc.

Nguyễn Tịch hát cuồng,

Sao theo tiếng khóc đường cùng.

Bột là đứa trẻ ba thước,

Một gă học tṛ.

Không đường dải dây,

Như Chung Quân c̣n thiếu thời.

Vẫn yêu đầu bút,

Mến trận trường phong Tông Xác.

Bỏ Trâm Hốt ở trăm năm,

Sớm tối theo cùng vạn dặm.

Không phải cây quư nhà họ Tạ,

Nhưng may thay họ Mạnh gần bên.

Ngày sau trước sân,

Đáp lời ông Lư.

Sáng nay vén tay áo,

Vui được gởi cửa Rồng.

Dương Ư không gặp,

Đọc Lăng vân mà tự tiếc.

Chung Kỳ tao ngộ,

Dạo khúc Lưu Thủy xá ǵ?

 

Ô hay!

Đất thắng chẳng tồn,

Tiệc vui khó gặp.

Lan Đ́nh thôi vậy,

Tử Trạch g̣ hoang.

Chia biệt tặng lời,

Hân hạnh nhờ ơn tiệc lớn.

Lên cao làm phú,

Do sự mong muốn người thôi.

Xin dốc ḷng thành,

Viết bài tự ngắn.

Một lời quân phú,

Bốn vận đều xong.

Mời nước sông Phan,

Làm nghiêng ngă mây nước vậy.

 

Bên sông Đằng các ngất trời xa

Loan ngọc c̣n đây vắng múa ca

Mây sớm bến Nam vờn cột vẽ

Ngàn Tây mưa muộn rèm châu sa

Đầm in mây nước trôi lơ lững

Vật đổi sao dời thu mấy tà

Đây các người đâu nay vắng bóng?

Ngoài Trường Giang nước xuôi ḍng qua...

 

Minh Tấn

Chú thích: (1) Tương truyền Vương Bột làm trọn bài tự này tại buổi tiệc của đô đốc Hồng Châu là Diêm Bá Chư yến tại Đằng Vương các, khi đó Vương Bột mới được 16 tuổi.  Cha của Vương Bột là thứ sử tại Giao Chỉ (Việt Nam), vào năm Hàm Thuần thứ hai, trên đường sang Giao Chỉ thăm cha bị cơn gió thổi mạnh đưa thuyền chàng trôi dạt đến bến Tầm Dương.  Ngay lúc đó đô đốc Hồng Châu là Diêm Bá Chư mở đại yến ở đây, mời tất cả tao nhân, mặc khách.  Vương Bột hay tin liền đến tham dự, họ Diêm sai con rể là Ngô Tử Chương chuẩn bị trước một bài tự để mang ra khoe với tân khách, trong bữa tiệc, họ Diêm sai đem giấy bút ra mời tân khách mỗi người làm một bài văn, nhưng không ai dám nhận.  Duy có Vương Bột không từ chối.  Họ Diêm và tân khách thấy Vương Bột c̣n quá trẻ có ư khinh thường, sai người ngó bài của Vương Bột rồi báo lại.  Khi nghe đến câu "Lạc hà dữ cô vụ tề phi, Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc." th́ hết sức thán phục, khen là thiên tài, bèn thỉnh cầu Vương Bột tiếp tục hoàn thành bài tự.

Bài tự "Đằng Vương Các" viết theo thể biền ngẫu, Vương Bột dùng nhiều từ hoa mỹ, điển tích, và nhiều tên của địa phương, nếu không biết nhiều th́ đôi lúc khó hiểu những ư nghĩa trong câu.  Trong bài tự Vương Bột tả địa lư, nhân vật, chủ khách trong tiệc, phong cảnh chung quanh khi ngồi trong các trông ra, rồi cuối cùng nói cảm tưởng của ḿnh, thật là một bài tự tuyệt diệu!

(2) Đằng Vương các là tên của một toà lầu ở Giang Nam.  Vào đời Đường, con trai của Đường Cao Tổ là Lư Nguyên Anh được phong tước hiệu Đằng Vương khi nhậm chức thứ sử tại Hồng Châu.  Nguyên Anh đă dựng lên một toà lầu ở Nam Xương, bên bến sông Cám Giang, gọi là Đằng Vương các...

Ở Trung Hoa có bốn toà lầu nổi tiếng là Bồng Lai Các, Đằng Vương Các, Hoàng Hạc Lâu, và Nhạc Dương Lâu, nhưng ở Giang Nam đă chiếm trọn ba cái, đó là Đằng Vương Các, Hoàng Hạc Lâu, và Nhạc Dương Lâu.  Người ta gọi ba toà lầu đó là "Giang Nam tam đại danh lâu."

(3) Vương Bột tự Tử An, người đất Long Môn.  Sáu tuổi đă biết làm văn.  Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần.  Vương có thói quen là mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn bút nghiên xong rồi nằm đắp chăn ngủ, khi tỉnh dậy, cầm ngay cây bút lên viết một loạt nên vần.  Vương nổi tiếng là một thi sĩ cao danh thời Sơ Đường (618-713), chàng là một trong "tứ kiệt Sơ Đường" thời bấy giờ.  Vào khoảng năm 675, lúc 27 tuổi, trên đường sang Giao Chỉ thăm cha, Vương Bột bị đắm thuyền chết đuối ở biển Nam Hải... Minh Tấn 

HOME

Copyright@www.haivan.8m.net