ﻶ Hải Vân Sơn Trangﻶ Dạo Hải Vân Sơn Trangﻶ Liên Lạc Hải Vân Trang Chủﻶ Hải Vân Sổ Lưu Niệm

"Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã

Sơn hà thiên cổ điện Kim âu..."

陳國俊 - Trần Quốc Tuấn (Việt Nam)

諭諸裨將檄文

余常聞之 紀信以身代死而脫高帝由于以背受戈而蔽招王蓣讓吞炭而復主讎 申蒯断臂而赴國難敬德一小生也身翼太宗而得免世充之圍杲卿一遠臣也口罵禄山而不從逆賊之計自古忠臣義士以身死國何代無之設使數子區區為兒女子之態徒死牖下烏能名垂竹白與天地相為不朽哉
 

汝等世為將種不曉文義其聞其說疑信相半古先之事姑置勿論今余以宋韃之事言之王公堅何人也其裨將阮文立又何人也以釣魚鎖鎖斗大之城當蒙哥堂堂百萬之鋒使宋之生靈至今受賜骨待兀郎何人也其裨將赤脩思又何人也冒瘴厲於萬里之途獗南詔於數旬之頃使韃之君長至今留名況余與汝等生於擾攘之秋長於艱難之勢竊見偽使往來道途旁午掉鴞烏之寸舌而陵辱朝廷委犬羊之尺軀而倨傲宰祔托忽必列之令而索玉帛以事無已之誅求假雲南王之號而揫金銀以竭有限之傥庫譬猶以肉投餒虎寧能免遺後患也哉

余常臨餐忘食中夜撫枕涕泗交痍心腹如搗常以未能食肉寢皮絮肝飲血為恨也雖余之百身高於草野余之千屍裹於馬革亦願為之

汝等久居門下掌握兵權無衣者則衣之以衣無食者則食之以食官卑者則遷其爵 祿薄者則給其俸水行給舟陸行給馬委之以兵則生死同其所為進之在寢則笑語同其所樂其是公堅之為偏裨兀郎之為副貳亦未下爾

汝等坐視主辱曾不為憂身當國恥曾不為愧為邦國之將侍立夷宿而無忿心聽太常之樂宴饗偽使而無怒色或鬥雞以為樂或賭博以為娛或事田園以養其家或戀妻子以私於己修生產之業而忘軍國之務恣田獵之遊而怠攻守之習或甘美酒或嗜淫聲脱有蒙韃之寇來雄雞之距不足以穿虜甲賭博之術不足以施軍謀田園之富不足以贖千金之軀妻拏之累不足以充軍國之用生產之多不足以購虜首獵犬之力不足以驅賊眾美酒不足以沈虜軍淫聲不足以聾虜耳當此之時我家臣主就縛甚可痛哉不唯余之采邑被削而汝等之俸祿亦為他人之所有不唯余之家小被驅而汝等之妻拏亦為他人之所虜不唯余之祖宗社稷為他人之所踐侵而汝等之父母墳墓亦為他人之所發掘不唯余之今生受辱雖百世之下臭名難洗惡謚長存而汝等之家清亦不免名為敗將矣當此之時汝等雖欲肆其娛樂得乎

今余明告汝等當以措火積薪為危當以懲羹吹虀為戒訓練士卒習爾弓矢使人人逄蒙家家后羿購必烈之頭於闕下朽雲南之肉於杲街不唯余之采邑永為青氈而汝等之俸祿亦終身之受賜不唯余之家小安床褥而汝等之妻拏亦百年之佳老不唯余之宗廟萬世享祀而汝等之祖父亦春秋之血食不唯余之今生得志而汝等百世之下芳名不朽不唯余之美謚永垂而汝等之姓名亦遺芳於青史矣當此之時汝等雖欲不為娛樂得乎

今余歷選諸家兵法為一書名曰兵書要略汝等或能專習是書受余教誨是夙世之臣主也或暴棄是書違余教誨是夙世之仇讎也

何則蒙韃乃不共戴天之讎汝等記恬然不以雪恥為念不以除凶為心而又不教士卒是倒戈迎降空拳受敵使平虜之後萬世遺羞上有何面目立於天地覆載之間耶故欲汝等明知余心因筆以檄云

 

Dụ Chu Tỳ Tướng Hịch Văn

Dư thường văn chi: Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế; Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương.  Dự Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù; Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn.  Kính Đức nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi; Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế.  Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi?  Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thái, Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy trúc bạch, Dữ thiên địa tương vi bất hủ tai!

Nhữ đẳng Thế vi tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa, Kỳ văn kỳ thuyết, nghi tín tương bán.  Cổ tiên chi sự cô trí vật luận.  Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi:
Vương Công Kiên hà nhân dã?  Kỳ tỳ tướng Nguyễn Văn Lập hựu hà nhân dã? Dĩ Điếu Ngư tỏa tỏa đẩu đại chi thành, Đương Mông Kha đường đường bách vạn chi phong, Sử Tống chi sinh linh chí kim thụ tứ!  Cốt Đãi Ngột Lang hà nhân dã? Kỳ tỳ tướng Xích Tu Tư hựu hà nhân dã? Mạo chướng lệ ư vạn lý chi đồ, Quệ Nam Chiếu ư sổ tuần chi khoảnh, Sử Thát chi quân trưởng chí kim lưu danh! Huống dư dữ nhữ đẳng, Sinh ư nhiễu nhương chi thu; Trưởng ư gian nan chi tế.  Thiết kiến ngụy sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ.  Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình; Ủy khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ.  Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu; Giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chi thảng hố. Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai?

Dư thường Lâm xan vong thực, Trung dạ phủ chẩm, Thế tứ giao di, Tâm phúc như đảo.  Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã.  Tuy Dư chi bách thân, cao ư thảo dã;
Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách, Diệc nguyện vi chi.

Nhữ đẳng Cửu cư môn hạ, Chưởng ác binh quyền.  Vô y giả tắc ý chi dĩ y; Vô thực giả tắc tự chi dĩ thực.  Quan ti giả tắc thiên kỳ tước; Lộc bạc giả tắc cấp kỳ bổng.  Thủy hành cấp chu; Lục hành cấp mã. Ủy chi dĩ binh, tắc sinh tử đồng kỳ sở vi; Tiến chi tại tẩm, tắc tiếu ngữ đồng kỳ sở lạc. Kỳ thị Công Kiên chi vi thiên tì, Ngột Lang chi vi phó nhị, Diệc vị hạ nhĩ.

Nhữ đẳng Tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu; Thân đương quốc sỉ, tằng bất vi quý.  Vi bang quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn tâm; Thính
thái thường chi nhạc, yến hưởng ngụy sứ nhi vô nộ sắc.  Hoặc đấu kê dĩ vi lạc; Hoặc đổ bác dĩ vi ngu.  Hoặc sự điền viên dĩ dưỡng kỳ gia; Hoặc luyến thê tử dĩ tư ư kỷ.  Tu sinh sản chi nghiệp, nhi vong quân quốc chi vụ; Tứ điền liệp chi du, nhi đãi công thủ chi tập.  Hoặc cam mỹ tửu; Hoặc thị dâm thanh.  Thoát hữu Mông Thát chi khấu lai, Hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp; Đổ bác chi thuật, bất túc dĩ thi quân mưu.  Ðiền viên chi phú, bất túc dĩ thục thiên kim chi khu; Thê noa chi lụy, bất túc dĩ sung quân quốc chi dụng.  Sinh sản chi đa, bất túc dĩ cấu lỗ thủ; Liệp khuyển chi lực, bất túc dĩ khu tặc chúng.  Mỹ tửu bất túc dĩ trấm lỗ quân; Dâm thanh bất túc dĩ lung lỗ nhĩ.  Ðương thử chi thời, Ngã gia thần chủ tựu phọc, Thậm khả thống tai! Bất duy dư chi thái ấp bị tước, Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc vi tha nhân chi sở hữu; Bất duy dư chi gia tiểu bị khu, Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc vi tha nhân chi sở lỗ; Bất duy dư chi tổ tông xã tắc, vi tha nhân chi sở tiễn xâm, Nhi nhữ đẳng chi phụ mẫu phần mộ, diệc vi tha nhân chi sở phát quật; Bất duy dư chi kim sinh thụ nhục, tuy bách thế chi hạ, xú danh nan tẩy, ác thụy trường tồn, Nhi nhữ đẳng chi gia thanh, diệc bất miễn danh vi bại tướng hĩ! Ðương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục tứ kỳ ngu lạc, Đắc hồ?

Kim dư minh cáo nhữ đẳng,
Đương dĩ thố hỏa tích tân vi nguy; Đương dĩ trừng canh xuy tê vi giới.  Huấn luyện sĩ tốt; Tập nhĩ cung thỉ.  Sử nhân nhân Bàng Mông; Gia gia Hậu Nghệ.  Cưu Tất Liệt chi đầu ư Khuyết hạ; Hủ Vân Nam chi nhục ư Cảo nhai. Bất duy dư chi thái ấp vĩnh vi thanh chiên, Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc chung thân chi thụ tứ; Bất duy dư chi gia tiểu đắc an sàng nhục, Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc bách niên chi giai lão; Bất duy dư chi tông miếu vạn thế hưởng tự, Nhi nhữ đẳng chi tổ phụ diệc xuân thu chi huyết thực; Bất duy dư chi kim sinh đắc chí, Nhi nhữ đẳng bách thế chi hạ, phương danh bất hủ; Bất duy dư chi mỹ thụy vĩnh thùy, Nhi nhữ đẳng chi tính danh diệc di phương ư thanh sử hĩ. Ðương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục bất vi ngu lạc, Đắc hồ!

Kim dư lịch tuyển chư gia binh pháp vi nhất thư, danh viết
Binh thư yếu lược. Nhữ đẳng Hoặc năng chuyên tập thị thư, thụ dư giáo hối, thị túc thế chi thần chủ dã; Hoặc bạo khí thị thư, vi dư giáo hối, thị túc thế chi cừu thù dã.

Hà tắc? Mông Thát nãi bất cộng đái thiên chi thù, Nhữ đẳng ký điềm nhiên, bất dĩ tuyết sỉ vi niệm, bất dĩ trừ hung vi tâm, Nhi hựu bất giáo sĩ tốt, thị đảo qua nghênh hàng, không quyền thụ địch; Sử
bình lỗ chi hậu, vạn thế di tu, Thượng hữu hà diện mục lập ư thiên địa phú tái chi gian da?  Cố dục nhữ đẳng minh tri dư tâm, Nhân bút dĩ hịch vân.

 

Hịch Tướng Sĩ Văn

 

Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Ðế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước.  Kính Ðức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng tay Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc.  Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có?  Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?  Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ.  Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn.  Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào?  Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào?  Vậy mà đem thành Ðiếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu!  Cốt Ðãi Ngột Lang là người thế nào?  Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người như thế nào?  Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!  Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổigian nan.  Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ.  Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn.  Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.

 

Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ câm tức rằng chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, ta cũng nguyện xin làm.

 

Các ngươi ở lâu dưới tướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm.  Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương.  Ði thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa.  Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.  So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?

 

Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn.  Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm.  Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích.  Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ.  Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân.  Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm.  Nếu bật chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh.  Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc.  Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù.  Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai.  Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta điều bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận.  Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?

 

Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ.  Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy điều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai.  Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền.  Lúc bấy giờ dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?  Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược.  Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời tay dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.

 

Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà cácngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc.  Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?  Cho nên ta viếtbài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.

 

Ngô Tất Tố

 

Chú Thích:

1) Kỷ Tín: tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang.  Khi Lưu Bang bị Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương, Kỷ Tín giả làm Hán Cao Tổ ra hàng, bị Hạng Vũ thiêu chết.  Hán Cao Tổ nhờ thế mới thoát được.

 

2) Do Vu: tướng của Sở Chiêu Vương thờ Xuân Thu.  Theo Tả Truyện, Sở Chiêu Vương bị nước Ngô đánh phải lánh sang phương Ðông, một đêm bị cướp vây đánh.  Do Vu đã chìa lưng ra đỡ giáo cho vua mình.

 

3) Dự Nhượng: gia thần của Trí Bá thời Chiến Quốc.  Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết, Dự Nhượng bèn nuốt than cho khác giọng đi, giả làm hành khất, mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ.

 

4) Thân Khoái: quan giữ ao cá của Tề Trang Công thời Xuân Thu.  Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái bèn chết theo chủ.

 

5) Kính Ðức: tức Uất Trì Cung đời Ðường.  Khi Ðường Thái Tông (bấy giờ còn là Tần Vương Lý Thế Dân) bị Vương Thế Sung vây, ông đã lấy mình che chở, hộ vệ cho Thái Tông chạy thoát.

 

6) Cảo Khanh: họ Nhan, một bề tôi trung của nhà Ðường.  Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Ðường Huyền Tông (Ðường Minh Hoàng) và Dương Quý Phi, ông đã cả gan chưởi mắng An Lộc Sơn và bị cắt lưỡi.

 

7) Vương Công Kiên: tướng tài nhà Tống, giữ Hợp Châu, lãnh đạo quân dân Tống cầm cự với quân Mông Cổ do Mông Kha chỉ huy ở núi Ðiếu Ngư suốt bốn tháng trời.  Mông Kha cuối cùng bị loạn tên chết, quân Mông Cổ đành phải rút lui.

 

8) Ðiếu Ngư: tên ngọn núi hiểm trở ở Tứ Xuyên, ba mặt nhìn xuống sông.  Ðời Tống, Dư Giới đắp thành ở đó.

 

9) Mông Kha: tức Mongka, anh của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, làm Ðại Hãn Mông Cổ từ năm 1251.  Mông Kha trực tiếp chỉ huy cuộc viễn chinh sang Trung Quốc và các nước phía Ðông.  Ông bị tử trận năm 1259 dưới chân thành Ðiếu Ngư trong cuộc vây hãm đội quân Tống do Vương Công Kiên chỉ huy.

 

10) Cốt Ðãi Ngột Lang: tức Uriyangquadai, tướng giỏi của Mông Cổ, con của viên tướng nổi tiếng Subutai.  Cốt Ðãi Ngột Lang nhận lệnh của Mông Kha, cùng Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Nam Chiếu.  Cốt Ðãi Ngột Lang cũng là viên tướng chỉ huy đạo quân Mông Cổ xâm lược Ðại Việt ta lần thứ nhất (1258).

 

11) Xích Tu Tư: viên tướng của Mông Cổ.  Hiện nay chưa có tài liệu nào nói gì về viên tướng này.

 

12) Nam Chiếu: nước nhỏ nằm ở khoảng giữa tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam ngày nay; thủ đô là Ðại Lý, thuộc Vân Nam.

 

13) Hốt Tất Liệt: tức Qubilai, em ruột và là tướng của Mông Kha.  Sau khi Mông Kha tử trận ở Ðiếu Ngư, Hốt Tất Liệt tự xưng là Ðại Hãn ở Khai Bình, khiến xảy ra cuộc nội chiến tranh giành ngôi báu với em ruột là Ariq-Buka.  Năm 1264, Ariq-Buka đầu hàng, Hốt Tất Liệt bèn dời đô về Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay), xưng Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà Nguyên.

 

14) Vân Nam Vương: tức Hugaci hay Thoát Hoan, con ruột Hốt Tất Liệt, được phong làm Vân Nam Vương năm 1267 với nhiệm vụ khống chế các dân tộc thiểu số vùng này cũng như mở rộng biên cương nhà Nguyên về phía Nam.  Thoát Hoan là người chỉ huy quân Nguyên xâm lược Ðại Việt lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1287-1288.

 

15) Nghìn thây bọc da ngựa: điển tích lấy từ câu nói của viên tướng khét tiếng Mã Viện đời Hán chép trong Hậu Hán Thư "Ðại trượng phu dương tử ư cương trường, dĩ mã cách khỏa thi nhĩ - Bậc đại trượng phu chết ở giữa chiến trường, lấy da ngựa mà bọc thây".

 

16) Thái Thường: tên loại nhạc triều đình dùng trong những buổi tế lễ quan trọng ở tông miếu.  Bấy giờ là thời kỳ ngoại giao căng thẳng giữa ta và quân Nguyên, trong những buổi yến tiệc tiếp sứ Nguyên, triều đình nhà Trần nhiều khi phải buộc dùng đến nhạc Thái Thường để mua vui cho sứ giả, Trần Quốc Tuấn xem đó là một điều nhục nhã.

 

17) Thái ấp: phần đất vua Trần phong cho các vương hầu.

 

18) Ðặt mồi lửa dưới đống củi nỏ: từ câu văn trong Hán Thư "phù bão hỏa, thố chi tích tân chi hạ nhi tẩm kỳ thượng, hỏa vi cập nhiên nhân vị chi an."  Ôm mồi lửa, đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa cháy vẫn cho là yên.

 

19) Kiềng canh nóng mà thổi rau nguội: xuất xứ từ một câu văn trong Sở Từ "trừng ư canh nhi xuy tê hề."  Người bị phỏng vì canh nóng, nên đã e sợ, dù gặp rau nguội đi chăng, cũng vẫn thổi như thường.

 

20) Bàng Mông: danh tướng đời nhà Hạ, có tài bắn cung trăm phát trăm trúng.

 

21) Hậu Nghệ: một nhân vật bắn cung giỏi trong thần thoại Trung Hoa.

 

22) Cảo Nhai: nơi trú ngụ của các vua, chư hầu khi vào chầu vua Hán ở Trường An.

 

23) mãi mãi vững bền: nguyên văn chữ Hán là "vĩnh vi thanh chiên."  Sách Thế Thuyết chép chuyện Vương Tử Kính đêm nằm ngủ thấy bọn trộm vào nhà vét sạch mọi vật.  Ông từ tốn vàbảo chúng rằng: cái nệm xanh (thanh chiên) này là đồ cũ của nhà ta, các ngươi làm ơn để lại.  Tác giả dùng điển tích này để chỉ những của cải được lưu truyền từ đời này sang đời khác.

 

24) Binh Thư Yếu Lược: tức Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược, nay đã thất truyền.  Tác phẩm với đầu đề tương tự được lưu truyền hiện nay không phải là văn bản thực thụ, trong đó có vài đoạn chép các trận đánh thời Lê Nguyễn sau này.

 

25) dẹp yên nghịch tặc: nguyên văn chữ Hán là "bình Lỗ chi hậu."  Các dịch giả Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim đoán Lỗ là tên đất ở vùng Phù Lỗ thuộc tỉnh Vĩnh Phú ngày nay.

HOME

Copyright@www.haivan.8m.net