ﻶ Hải Vân Sơn Trangﻶ Dạo Hải Vân Sơn Trangﻶ Liên Lạc Hải Vân Trang Chủﻶ Hải Vân Sổ Lưu Niệm

"Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đ́nh tiền tạc dạ nhất chi mai..."

阮廌 - Nguyễn Trăi (Việt Nam 1380-1442)

家訓歌 - Gia Huấn Ca

 

(1) Lời Mở Đầu

Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ,
Hễ làm người dạy kỹ th́ nên,
Phấn son cũng phải bút nghiên,
Cũng nhân tâm ấy há thiên lư nào.

 

Dạy Vợ Con

Nhân thong thả lựa vần quốc ngữ,
Làm bài ca dạy vợ nhủ con:
Lời ăn nết ở cho khôn,
Chớ nên đa quá, đa ngôn chút nào!
Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt,

H́nh dung đừng ve vuốt ngắm trông,
Một vừa hai phải th́ xong,
Giọt dài giọt ngắn cũng không ra ǵ?
Khi đứng ngồi chứ hề lơ lẳng,
Tiếng nhục nhằn nữa nặng đến ḿnh,

Hạt mưa chút phận lênh đênh,
Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.
Ḱa mấy kẻ làu làu tiết ngọc,
Đem sắt đanh nguyện lúc lửa châm,
Con hiền cha mẹ an tâm,

Một nhà khen ngợi, ngh́n năm bia truyền.
Nọ những kẻ nước nguyền non hẹn,
Thấy mùi hoa bướm nghển, ong chào,
Miệng đời dê diếu biết bao,
Đông ra quốc pháp, nhục vào gia thanh.

Đem người trước lấy ḿnh ngắm lại,
Khôn ba năm đừng dại một giờ,
Đua chi chén rượu câu thơ,
Thuốc lào ngọt nhạt, nước cờ thấp cao.
Đám dồi mỏ ra vào săn sóc,

Lại bài phu, tam cúc, đánh đinh,
Đố mười, chẵn lẻ, đố kinh,
Tổ tôm, kiệu chắn, sám quanh tứ chiều.
Đi đứng đắn, chớ điều vùng vẫy,
Khi tối tăm đèn phải phân minh,

Hoặc khi hội hát linh đ́nh,
Đ ược lời dạy đến th́ ḿnh hăy ra.
Ra phải có mẹ già em nhỏ,
Đ ừng đánh đàn, đánh lũ không hay,
Nói đừng chau mặt, chau mày,

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!
Của tằn tiện, chắt chiu hàn gắn,
Khách buôn tàu chưa hẳn nơi đây !
Cũng đừng vắt nước cổ chày,
Tiếp tân tế lễ là ngày nên hoang.

Ăn ở chớ ḷng mang khoảnh khắc,
Mua bán đừng điêu trác đong đưa,
Mua đừng ráo riết quá lừa,
Bán đừng bo xiết, ích ta hại người.

 

Với Cha Mẹ

Dù nội, ngoại hai bề cũng vậy,
Đừng trành hanh bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao dày,

Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Bởi thương đến mới năng mắng quở,
Muốn cho ta sáng sủa hơn người,
Ân cần kẽ tóc, chân tơ,
Tấm ḷng chép để mấy lời tạc ghi.

Đừng nặng nhẹ, tiếng ch́ tiếng bấc,
Đ ừng vùng vằng mặt vực, mặt lưng,
Có th́ sớm tiến trưa dâng,
Cơm ngon canh ngọt cho bằng chị em.
Dù chẳng có th́ yên một phận,

Người trên ta há giận ta sao!
Hoặc khi lầm lỗi điều nào,
Đánh đằng cửa trước, chạy vào cửa sau.
Khi ấm lạnh ta hầu coi sóc,
Xem cháo cơm, thang thuốc mọi bề,

Ra vào thăm hỏi từng khi,
Người đà vô sự, ta th́ an tâm.
Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,
Kiệm hay phong cũng liệu tùy ngơi,
Đừng điều tranh cạnh chia bai,

Xấu trong làng nước, để cười mai sau.

 

Với Chồng

Đạo vợ chồng t́nh sâu nghĩa ái,
Lại chẳng nên mặt tái, mày tăm,
Chuyện đâu bỏ đấy cho êm,
Đừng đem bên ấy về gièm bên ta.

Sách có chữ "nhập gia vấn húy",
Khi nói năng phải kỹ kiêng khem,
Dịu dàng tiếng thuận lời mềm,
Cứ lời chồng dạy mới yên cửa nhà.
Chớ nên cậy ḿnh ta tài sắc,

Chồng nói ra nhiếc móc chê khen.
Nói càn như ở bậc trên,
Thường khi động đến tổ tiên quá lời.
Cơn giận đến, sự đời ngang ngửa,
Dở dói ra nát cửa tan nhà,

Chữ "tùy" là phận đàn bà,
Nhu ḿ để dạ, chua ngoa gác ngoài.
Dù lỗi phận gặp người tửu sắc,
Hay gặp người cờ bạc lưu liên,
Nhỏ to tiếng dịu lời êm,

Dần dà uốn măi may mềm được chăng !
Phải chồng ngược, cắn răng chịu khổ,
Chớ nghiêng đầu, ngảnh cổ thiệt thân,
Duyên may gặp được văn nhân,
Thuộc câu "tương kính như tân" làm ḷng.

Nghiệp đèn sách khuyên chồng sập să,
Tiếng kê minh gióng giả đêm ngày,
Khuyên chồng nhớ đến đạo thầy,
Vật dâng lớn nhỏ gọi nay lễ thường.

 

Với Vợ Lẻ

In lấy chữ tao khang chi nghị,

Đừng mang câu đố kỵ chi thường,
Dây b́m cho tựa cành vàng,
Trước chàng đẹp mặt, sau nàng đỡ tay.
Câu "đường cái" xưa nay cũng vậy,
Trai làm nên lấy bảy lấy ba,

Lấy về hầu hạ nhà ta,
Thêm ḥe, nẩy quế có là con ai?
Cũng da thịt cũng tai mắt thế,
Kém ta nên phận ế hoa ôi,
Nghĩ t́nh ăn cạnh nằm ngoài,

Ấm no nên xót lấy người bơ vơ.
Thế mới phải phép thờ phu tử,
Ấy mới là đạo xử hài ḥa,
Chữ "Tùy" rắn khúc nghi gia,
Môn đường thong thả, một nhà vẻ vang.

 

Với Bạn Hữu Của Chồng

Ḱa những đứa mặt thường cau có,
Khách đến nhà chửi chó mắng mèo,
Cất lời nặng cỡ đá đeo,
Đă ra thét tớ lại vào mắng con.
Khách về đoạn sợ ṃn mất chiếu,

Chồng ra đường chẳng kẻo mặt mo!
Hễ ngày bạn hữu giao du,
Sai người trải chiếu, sắp đồ tiếp ra.
Dù trăm giận th́ ta để bụng,
Có trọng người mới trọng chồng ta.

Tùy người thết đăi rượu trà,
Nhớ rằng: Của gửi chồng ta đi đường!

 

Với Chị Em

Ấy là vẹn cương thường bằng hữu,
Lại phải tường trong đạo chị em,
Đạo em th́ phải trông lên,

Đạo chị trông xuống cho êm đẹp chiều.
Miếng bùi ngọt chia đều như một,
Khi nắng mưa ấm sốt đỡ tay,
Với nhau như bát nước đầy,
Lá lành đùm bọc bóng cây rườm rà!

Đạo thúc tẩu một nhà minh bạch,
Lánh hiềm nghi tăm tích rơ ràng,
Trộm trông bóng đuốc Vân Trường,
Nức danh ba nước treo gương muôn nhà.

 

Với Trong Họ Ngoài Làng

Cả trong ngoài cùng là đàn cháu,

Xem như con yêu dấu chẳng sai,
Đồng quà, tấm bánh hôm mai,
Chớ điều dằn vật, chớ lời gieo đanh.
Từ họ mạc, láng giềng, hàng xóm,
Cũng ở cho trong ấm ngoài êm,

Tiếng chào, tiếng hỏi cho mềm,
Chẳng khinh ai cũng chẳng hiềm oán ai.

 

Với Những Khi Sản Dục

Ấy ngôn hạnh các lời hằng giữ,
Lại cần điều cư xử cho tuyền,
Hễ ngày sóc, vọng, hối, huyền,

Cùng ngày nguyệt tín phải khuyên dỗ chồng.
Khi thai sản trong pḥng ǵn giữ,
Học cổ nhân huấn tử trong thai,
Dâm thanh chớ để vào tai,
Ác ngôn chớ chút bợn lời sam sưa!

Từ xuất nhập, khởi cư, hành động,
Có lễ nghi nghiêm trọng đoan trinh,
Đứng ngồi chính đại quang minh,
Cho bằng phẳng thế, chớ chênh lệch ḿnh.
Chớ vịn cao cũng đừng mang nặng,

Đừng ăn đồ cay đắng canh riêu,
Đừng ăn ít, chớ ăn nhiều,
Nuôi từ trong dạ khỏi điều lo xa.
Khi sinh nở thai ḥa vô sự,
Cẩn từ khi trong cữ ngoài tuần,

Chiều sương chớ để áo quần,
Đỉnh đầu phải cúi, bước chân phải ḍ.
Nơi bếp vách đừng cho hơ lửa,
Ngọn đèn hoa chớ quở quá ngôn,
Kiêng khem trăm sự vuông tṛn,

Trước ḿnh yên dạ, sau con ít sài.

 

Với Con Cái

Ngày con đă biết chơi biết chạy,
Đừng cho chơi cầm gậy, trèo cao,
Đừng cho chơi búa chơi dao,
Chơi vôi, chơi lửa, chơi ao có ngày.

Lau cho sạch không hay dầm nước,
Ăn cho vừa, đừng ước cao lương,
Mùa đông tháng hạ thích thường,
Đ ừng ôm ấp quá, đừng suồng să con.
Dạy từ thuở hăy c̣n trứng nước,

Yêu cho đ̣n bắt chước lấy người,
Tŕnh thưa, vâng dạ, đứng ngồi,
Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên.
Gần mực đen, gần đèn th́ sáng,
Ở bầu tṛn, ở ống th́ dài,

Lạ ǵ con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.
Làm mẹ chớ ăn càn, nói dở,
Với con đừng chửi rủa quá lời,
Hay chi thô tục những người,

Hôm nay cụ cụ, ngày mai bà bà.
Gieo tiếng ra chết cây, găy cối,
Mở miệng nào có ngọn có ngành,
Đến tay bụt cũng không lành,
Chồng con khinh rẻ, thế t́nh mỉa mai!

Ấy những thói ở đời ngông dại,
Khôn th́ chừa, mới phải giống người,
Sinh con th́ dạy th́ nuôi,
Biết câu phải trái lựa lời khuyên răn.

 

Với Dâu Rễ

Tuổi cả khôn, hôn nhân trạch phối,

Giàu đừng tham, khó đói chớ nề,
Dâu hiền, rể thảo t́m về,
Xem tông xem giống kẻo mê mà lầm.
Xử với rể một niềm kính trọng,
Dù dở hay, đừng giọng mỉa mai,

Với dâu, dạy bảo phải lời,
Bắt khoan bắt nhặt, biết ai cho vừa!

(2) Với Tôi Tớ

Gương giáo tử nhường đưa mặt nhận,
Mực tŕ gia đặt hẳn ân uy,
Bọt bèo là phận nô tỳ,

Dạy nghiêm, ở thảo hai bề vẹn hai.
Có câu ví "Chiều người lấy việc",
Chẳng há nên ráo riết người ta,
Hay th́ nó ở lâu ra,
Dở th́ nó bước nào ta bận ǵ.

Một đôi kẻ phải khi lỡ độ,
Có th́ cho chẳng có th́ thôi,
Chẳng nên nhiếc mắng nhiều lời,
Cơ hàn hầu dễ có ai muốn ǵ.

 

Thờ Cúng

Trong nhà vận thịnh suy có mệnh,

Đạo quỉ thần th́ kính viễn chi,
Nắng mưa giải kiết có khi,
Phải chăm cơm thuốc, đừng mê cốt thầy.
Nhà chẳng quét, quét hay có rác,
Đă bói ra, bỏ nhác sao đành,

Cao tay mấy kẻ có danh,
Bùa bèn chẳng bỏ là tinh hiện vào.
Suy cho thấu, tà nào phạm chính,
Cứ thánh kinh cảnh tỉnh dị kỳ,
Ḱa như mấy kẻ tăng, ni,

Thôi tuần cúng Phật, lại khi vào hè.
Nam mô Phật rù ŕ hai chữ,
Đua nhau rằng tín nữ thiện nam,
Miệng rằng chừa độc chừa dâm,
Tay lần tràng hạt dao găm một bồ.

Kẻ trốn việc ở chùa cũng có,
Kẻ lộn chồng, trốn chúa cũng nhiều,
Gian ngoan rất mực làm kiêu,
Mượn danh Ḥa thượng, lợi điều tham dâm.
Chẳng qua lũ ngu dân hoặc thái,

Phúc đức đâu nghĩ lại mà coi,
Trước sau có bấy nhiêu lời,
Bảo nhau ǵn giữ nên người thơm danh.
Dù ai nấy có t́nh chẳng cứ,
Thói Thọ Dương vẫn giữ không chừa,

Ngày ngày mắng sớm đ̣n trưa,
Thường thường dạy dỗ mà ra tuồng ǵ.
Cành kia lớn sợ khi khó nắn,
Sắt nọ mài ắt hẳn nên kim,
Diễn nôm cho tiện mà xem,

Dạy nhà trước đă mới đem dạy người.

 

Dạy Con Ở Cho Có Đức

Lấy điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.

Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người quan quả, cô đơn,

Thương người lỡ bước lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách th́ thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.

Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây "cần kiệm" gọi là làm duyên.
May ra ở chốn b́nh yên,
C̣n người tàn phá chẳng nên cầm ḷng.
Tiếng rằng: ngày đói tháng đông,

Ở phải có nhân có ngh́,
Thơm danh vả lại làm bia miệng người.
Hiền lành lấy tiếng với đời,
Ḷng người yêu dấu, là trời hộ ta.
Tai ương hoạn nạn đều qua,

Bụi trần giũ sạch thực là từ đây.
Vàng trời tuy chẳng trao tay,
B́nh an hai chữ xem tày mấy mươi.
Mai sau bạc chín tài mười,
Sống lâu ăn măi của đời về sau.

 

Dạy Con Gái Phải Có Đức Hạnh

Phận làm gái ở cùng cha mẹ,
Ḷng phải chăm học khéo học khôn,
Một mai xuất giá hồi môn,

Phận bồ liễu giá trong như ngọc,
Khéo là khéo bánh trong, bánh lọc,
Lại ngoan nghề dệt vóc, may mền.
Khôn là khôn lẽ phải, đường tin,
Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi.

Khôn chẳng tưởng mưu lừa chước dối,
Khéo chẳng khoe vẻ lịch, chiều trai.
Xưa nay hầu dễ mấy người,
Miệng khôn, tai khéo cho ai được nhờ.
Phận làm gái này lời giáo huấn,

Lắng tai nghe cổ truyện mới nên,
Hăy xem xưa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh,
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,
Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim.

Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha thiết, không chiều lả tả.
Ngôn là dạy tŕnh thưa vâng dạ,
Hạnh là đường ngay thảo kính tin.
Xưa nay mấy kẻ dâu hiền,

Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần.
Phận con gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe kể chuyện tam cương:
Dẫu ái ân cùng chiếu cùng giường,
Đạo chồng sánh quân thân chi đạo,

Làm tôi con chỉ trung chỉ hiếu,
Làm dâu th́ chỉ kính mới nên.
Chớ khoe khoang ḿnh bạc ḿnh tiền,
Đừng đỏng đảnh cậy khôn cậy khéo.
Bề thiếp phụ thuận ṭng là điệu,

Cũng như bên thờ chúa thờ cha,
Muôn ngh́n đừng thói kiêu ngoa,
Mắng ta không giận, yêu ta không nhờn.
Quyền mệnh phụ là ḿnh làm chủ,
Trong đại hôn áo mũ thân nghênh,

Kính người vợ phép ở Lễ Kinh.
Chức phận phải chăm bề tần tảo,
Trong khuê khổn giữ ǵn khăn áo,
Trên từ đường trăm việc trơn tru.
Từ cơm, canh, cá, thịt, mọi đồ,

Dẫu nhiều ít sửa cho trong sạch.

 

Vợ Khuyên Chồng

Vợ chồng ta tơ hồng vấn vít,
Nhân duyên này bà nguyệt khéo xe.
Tŕnh anh thân thiếp vụng về,
Yêu th́ nên tốt chớ nề ngu si.

Quản bao lỗi nọ, lầm kia,
Chiều thanh vẻ quí dám b́ được đâu.
Thiếp vâng lời dạy trước sau,
Nguyện xem then khóa, giữ hầu áo khăn.
Trước là thờ phụng tiền nhân,

Sớm thăm tối viếng ân cần đỡ anh.
Bốn phương chàng hăy kinh doanh,
Dùi mài kinh sử tập tành cung tên.
Công danh mong đợi ơn trên,
C̣n trong trần lụy hăy xin dấu mầu.

Gửi tŕnh dễ dám khuyên đâu,
Sắc pḥng thương thận, rượu hầu thương tâm,
Thiếp xin chàng chớ đăm đăm,
Những nơi cờ bạc chớ ham làm ǵ.
Thế gian lắm kẻ điên mê,

Áo quần lam lũ người th́ như ma.
Thiếp xin chàng lánh cho xa,
Một niềm trung hiếu để mà lập thân.
Bấy lâu những đợi long vân,
Đào thơ, liễu yếu gửi thân anh hùng.

Xưa nay gái đội ơn chồng,
Hiển vinh bơ lúc cơm sung, cháo dền.
Ơn trời công đă được đền,
Chàng nên quan cả, thiếp nên hầu bà!

 

Dạy Học Tṛ Ở Cho Phải Đạo

Nào là những kẻ học tṛ,

Nghe lời thầy dạy phải lo sửa ḿnh.
Nghĩa cha sinh cùng công mẹ dưỡng,
Thời đêm ngày tư tưởng chớ khuây,
Hai công đức ấy nặng thay,
Xem bằng bể rộng, coi tày trời cao!

Tŕnh vâng từ tốn ngọt ngào,
Đi về thưa thốt, ra vào thăm lênh.
Bánh quà, cá thịt, cơm canh,
Sớm trưa thay đổi để dành hẳn hoi.
Bữa thường dâng ngọt dâng bùi,

Nâng niu chào hỏi chẳng sai đâu là.
Nghĩ công khó nhọc nuôi ta,
Đến ngày cả lớn mong cho vuông tṛn,
Kể từ lúc hăy c̣n thai dựng,
Đến những khi nuôi nấng giữ giàn.

Nặng nề chín tháng cưu mang,
Công sinh bằng vượt bể sang nước người.
Đoạn thôi lúc ấy vừa rồi,
Ấp ôm bú mớm chẳng rời trên tay.
Mong cho biết ngửa biết ngây,

Biết chuyện biết hóng chẳng khuây bao giờ,
Ngày trứng nước, thủa ngây thơ.
Bao giờ sài ghẻ bấy giờ lại lo.
Lo cho biết lẫy, biết ḅ,
Mong cho biết đứng, mong cho biết ngồi.

Đoạn rồi lại lo khi xảy đậu,
Công, dại, ngây, thơ ấu, u ơ.
Ba năm nhũ bộ c̣n thơ,
Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào?
Chữ rằng "sinh ngă cù lao",

Bể sâu khôn ví, trời cao khôn b́.
Nhưng mà gặp buổi b́nh th́,
Tiền trăm, bạc chục việc ǵ mà lo!
Hay là gặp cửa nhà giàu,
Của ch́m của nổi dễ hầu lo chi!

Song ta vốn đă hàn vi,
Lại sinh ra gặp phải th́ can qua.
Đ̣i khi kém đói thiết tha,
Bán buôn tần tảo cho qua lúc này.
Việc nhà việc cửa chuyên tay,

Khi đêm quên ngủ, khi ngày quên ăn.

 

Khuyên Học Tṛ Phải Chăm Học

Trước cửa Khổng cung tường chín chắn.
Bước lên đường vào cửa ung dung,

Trăm quan, tôn miếu, lạ lùng,
Học hành cho biết thủy chung tỏ tường.
Bẩm phi thường khác hơn mọi vật,
Ắt làm người thời chẳng hư sinh.
Phú cho tai mắt thông minh,

Tính t́nh gồm đủ kiếp sinh vẹn tuyền.
Bực thánh hiền ấy không dám ví,
Song làm người có chí th́ nên,
Khai tâm từ thủa thiếu niên,
Hiếu kinh tiểu học trước liền cho thông.

Đọc cho đến Trung dung, Đại học,
Tứ thư rồi lại đọc ngũ Kinh,
Thi, Thư, Dịch, Lễ, đều tinh,
Xuân thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà.
Xem cho đến Bách gia, Chư tử,

Bảy mươi pho sử đều thông,
Sớm khuya ở chốn văn pḥng,
Bút nghiên, giấy mực bạn cùng chân tay.
Bài kinh nghĩa cùng bài văn sách,
Tinh phú, thơ, mọi vẻ văn chương.

Một đèn, một sách, một giường,
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Học tṛ giữ chính tâm làm trước,
Với tu, tề, b́nh, trị đều yên,
Cương thường giữ hiếu làm nên,

Từ đoan, ngũ giáo cho tuyền công sinh.
Bề đạo đức, gia đ́nh phải giảng,
Phủ thiên quân quang đăng tinh vi.
Lư cho cách vật, trí tri,
Trong th́ dưỡng đức, ngoài th́ tu thân.

Tác giả: Nguyễn Trăi hiệu là Ức Trai, người làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (tức phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông). Năm 21 tuổi đỗ Thái học sinh (tiến sỹ) niên hiệu Thánh nguyên thứ 1 triều vua Hồ Quí Ly (1400). Làm quan đến chức Ngự sử đài chánh chưởng. Thân phụ là Nguyễn Phi Khanh, đỗ Bảng nhăn niên hiệu Long Khánh thứ 2 triều vua Trần Duệ tông (1374), v́ cớ là hàn tộc mà lấy con gái Trần Nguyên Đán là tôn thất nhà Trần, theo phép nhà Trần không được bổ dụng.
Măi đến triều nhà Hồ mới được dùng làm Trung thư thị lang. Khi quân Minh sang xâm lấn, hai cha con vua nhà Hồ bị bắt. Phi Khanh cũng bị giải về Tàu. Nguyễn Trăi khóc theo đến Nam quan. Phi Khanh ngoảnh lại bảo rằng: "Con về rửa hờn cho nước, báo thù cho cha, mới là người đại trung đại hiếu, không nên theo nhi nữ thường t́nh!" Nguyễn Trăi trở về đi theo Lê Thái Tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn. Trong 10 năm kháng chiến với quân Minh, giúp vua Lê bằng mưu kế: phàm các văn thư từ trát giao thiệp với tướng nhà Minh, đều do một tay ông thảo thiện. Sau khi đă đánh đuổi ngoại xâm về Tàu, Nguyễn Trăi được phong tước Quan phục hầu, liệt vào hạng khai quốc công thần đệ nhất . Triều vua Lê Thái Tông được làm Nhập nội hành khiển (tức Tể tướng). Năm 60 tuổi, về trí sĩ tại Côn Sơn (thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Ba năm sau, v́ án Nguyễn Thị Lộ, bị tru di tam tộc.

Sử chép: Niên hiệu đại bảo thứ 3 triều Lê Thái Tông (1442), nhà vua đi tuần phương đông, duyệt vơ ở Chí Linh, Nguyễn Trăi đón xa giá đến chơi chùa Côn Sơn . Thiếp của Nguyễn Trăi là Nguyễn Thị Lộ, có tài sắc, được nhà vua vời . Khi xa giá đến vườn Lệ Chi (xă Đại Lai, huyện Gia B́nh, tỉnh Bắc Ninh) nhà vua bị bệnh sốt, Thị Lộ vào chầu suốt đêm rồi vua mất, ai nấy đều nói Thị Lộ thí nghịch, nên Nguyễn Trăi phải tội tru di. Năm ấy, Nguyễn Trăi 63 tuổi, có người thiếp đương có thai trốn được, sau sinh ra Nguyễn Ánh Vũ. Đời Lê Thánh Tông, Nguyễn Trăi được minh oan, truy tặng Tế văn hầu. Anh Vũ được bổ chức Tri châu.

 

Tác phẩm: Nguyễn Trăi chẳng những là bậc năng thần kinh bang tế thế, mà c̣n là một nhà đại văn hào của Việt Nam ta. Tác phẩm của Tiên sinh bằng chữ Hán rất nhiều, hiện nay c̣n truyền lại đều in trong bộ Ức Trai Toàn Tập: như Ức Trai Thi Tập, Ức Trai Văn Tập, Quân Trung Từ Lệnh Tập, An Nam Vũ Cống v.v... Tác phẩm bằng Quốc âm, nay chỉ c̣n truyền lại có 2: tức là tập "Gia Huấn Ca" này và bài thơ "Hỏi Ả Bán Chiếu" mà người ta thường truyền tụng.

HOME

Copyright@www.haivan.8m.net