ﻶ Hải Vân Sơn Trangﻶ Dạo Hải Vân Sơn Trangﻶ Liên Lạc Hải Vân Trang Chủﻶ Hải Vân Sổ Lưu Niệm

"Dạ thính Đỗ Quyên minh quốc quốc

Nhật giăng Cô Điểu hoán gia gia..."

阮廌 - Nguyễn Trăi (Việt Nam 1380-1442)

平吳大告

代天行化皇上若曰。


蓋聞﹕仁義之舉,要在安民,弔伐之師莫先去暴。惟,我大越之國,實為文獻之邦。山川之封域既殊,南北之風俗亦異。自趙丁李陳之肇造我國,與漢唐宋元而各帝一方。雖強弱時有不同而豪傑世未常乏。故劉龔貪功以取敗,而趙好大以促亡。唆都既擒於鹹子關,烏馬又殪於白藤海。嵇諸往古,厥有明徵。頃因胡政之煩苛。至使人心之怨叛。狂明伺隙,因以毒我民;惡黨懷奸,竟以賣我國。焮蒼生於虐焰,陷赤子於禍坑。欺天罔民,詭計蓋千萬狀;連兵結釁稔惡殆二十年。敗義傷仁,乾坤幾乎欲息;重科厚歛,山澤靡有孑遺。開金場塞冒嵐瘴而斧山淘沙,採明珠則觸蛟龍而緪腰汆海。擾民設玄鹿之陷阱,殄物織翠禽之網羅。昆虫草木皆不得以遂其生,鰥寡顛連俱不獲以安其所。浚生靈之血以潤桀黠之吻牙;極土木之功以崇公私之廨宇。州里之征徭重困,閭閻之杼柚皆空。決東海之水不足以濯其污,罄南山之竹不足以書其惡。神民之所共憤,天地之所不容。

予﹕奮跡藍山,棲身荒野。念世讎豈可共戴,誓逆賊難與俱生。痛心疾首者垂十餘年,嘗膽臥薪者蓋非一日。發憤忘食,每研覃韜略之書,即古驗今,細推究興亡之理。圖回之志寤寐不忘。當義旗初起之時,正賊勢方張之日。

奈以﹕人才秋葉,俊傑晨星。奔走先後者既乏其人,謀謨帷幄者又寡其助。特以救民之念,每鬱鬱而欲東;故於待賢之車,常汲汲已虛左。

然其﹕得人之效茫若望洋,由己之誠甚於拯溺。憤兇徒之未滅,念國步之遭迍。靈山之食盡兼旬,瑰縣之眾無一旅。蓋天欲困我以降厥任,故與益勵志以濟于難。揭竿為旗,氓隸之徒四集投醪饗士,父子之兵一心。以弱制彊,或攻人之不備;以寡敵眾常設伏以出奇。

卒能﹕以大義而勝兇殘,以至仁而易彊暴。蒲藤之霆驅電掣,茶麟之竹破灰飛。士氣以之益增,軍聲以之大振。陳智山壽聞風而;褫魄,李安方政假息以偷生。乘勝長驅,西京既為我有;選兵進取,東都盡復舊疆。寧橋之血成川,流腥萬里;窣洞之屍積野,遺臭千年。陳洽賊之腹心,既梟其首;李亮賊之奸蠹,又暴厥屍。王通理亂而焚者益焚,馬瑛救鬥而怒者益怒。彼智窮而力盡,束手待亡;我謀伐而心攻,不戰自屈。謂彼必易心而改慮,豈意復作孽以速辜。執一己之見以嫁禍於他人,貪一時之功以貽笑於天下。遂靈宣德之狡童,黷兵無厭;仍命晟昇之懦將,以油救焚。丁未九月柳昇遂引兵猶邱溫而進,本年十月木晟又分途自雲南而來。予前既選兵塞險以摧其鋒,予後再調兵截路以斷其食。本月十八日柳昇為我軍所攻,計墜於支稜之野;本月二十日柳昇又為我軍所敗,身死於馬鞍之山。二十五日保定伯梁銘陣陷而喪軀,二十八日尚書李慶計窮而刎首。我遂迎刃而解,彼自倒戈相攻。繼而四面添兵以包圍,期以十月中旬而殄滅。爰選貔貅之士,申命爪牙之臣。飲象而河水乾,磨刀而山石鈌。一鼓而黥刳鱷斷,再鼓而鳥散麇驚。決潰蟻於崩堤,振剛風於稿葉。都督崔聚膝行而送款,尚書黃福面縛以就擒。僵屍塞諒江諒山之途,戰血赤昌江平灘之水。風雲為之變色,日月慘以無光。其雲南兵為我軍所扼於梨花,自恫疑虛喝而先以破腑;其沐晟眾聞柳昇為我軍所敗於芹站,遂躪藉奔潰而僅得脫身。冷溝之血杵漂,江水為之嗚咽;丹舍之屍山積,野草為之殷紅。兩路救兵既不旋踵而俱敗,各城窮寇亦將解甲以出降。賊首成擒,彼既掉餓虎乞憐之尾;神武不殺,予亦體上帝孝生之心。參將方政,內官馬騏,先給艦五百餘艘,既渡海而猶且魂飛魄散;總兵王通,參政馬瑛,又給馬數千餘匹,已還國而益自股慄心驚。彼既畏死貪生,而修好有誠;予以全軍為上,而欲民之得息。非惟謀計之極其深遠,蓋亦古今之所未見聞。社稷以之奠安,山川以之改觀。乾坤既否而復泰,日月既晦而復明。于以開萬世太平之基,于以雪天地無窮之恥。是由天地祖宗之靈有以默相陰佑而致然也!

於戲!一戎大定,迄成無兢之功;四海永清,誕布維新之誥。

播告遐邇,咸使聞知。

 

B́nh Ngô đại cáo (âm)

Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết.

Cái văn: Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân, điếu phạt chi sư mạc tiên khứ bạo.  Duy, ngă Đại Việt chi quốc, thật vi văn hiến chi bang.  Sơn xuyên chi phong vực kí thù, nam bắc chi phong tục diệc dị.  Tự Triệu Đinh Lư Trần chi triệu tạo ngă quốc, dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.  Tuy cường nhược th́ hữu bất đồng, nhi hào kiệt thế vị thường phạp.  Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại, nhi Triệu Tiết hảo đại dĩ xúc vong.  Toa Đô kí cầm ư Hàm Tử quan, Ô Mă hựu ế ư Bạch Đằng hải.  Kê chư văng cổ, quyết hữu minh trưng.  Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.  Chí sử nhân tâm chi oán bạn.  Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngă dân; ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngă quốc.  Hân thương sinh ư ngược diệm, hăm xích tử ư họa khanh.  Khi thiên vơng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng; liên binh kết hấn nẫm ác đăi nhị thập niên.  Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỉ hồ dục tức; trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết di.  Khai kim trường tái mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa, thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải.  Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hăm tịnh, điễn vật chức thúy cầm chi vơng la.  Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại ḱ sinh, quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an ḱ sở.  Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha; cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.  Châu lí chi chinh dao trọng khốn, lư diêm chi trữ trục giai không.  Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc ḱ ô, khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư ḱ ác.  Thần dân chi sở cộng phẫn, thiên địa chi sở bất dung.

Dư: Phấn tích Lam Sơn, thê thân hoang dă.  Niệm thế thù khởi khả cộng đái, thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.  Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên, thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.  Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư, tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lí.  Đồ hồi chi chí Ngộ mị bất vong.  Đương nghĩa ḱ sơ khởi chi th́, chính tặc thế phương trương chi nhật.

Nại dĩ: Nhân tài thu diệp, tuấn kiệt thần tinh.  Bôn tẩu tiên hậu giả kí phạp ḱ nhân, mưu mô duy ác giả hựu quả ḱ trợ.  Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục Đông; cố ư đăi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.

Nhiên ḱ: Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương, do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.  Phẫn hung đồ chi vị diệt, niệm quốc bộ chi tao truân.  Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần, Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.  Cái thiên dục khốn ngă dĩ giáng quyết nhiệm, cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.  Yết can vi ḱ, manh lệ chi đồ tứ tập; đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.  Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị; dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất ḱ.

Tốt năng: Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn, dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.  Bồ Đằng chi đ́nh khu điện xế, Trà Lân chi trúc phá hôi phi.  Sĩ khí dĩ chi ích tăng, quân thanh dĩ chi đại chấn.  Trần Trí Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách, Lư An Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.  Thừa thắng trường khu, Tây Kinh kí vị ngă hữu; tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.  Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lí; Tốt Động chi thi tích dă, di xú thiên niên.  Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, kí kiêu ḱ thủ; Lư Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.  Vương Thông lí loạn nhi phần giả ích phần, Mă Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.  Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đăi vong; ngă mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.  Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự, khởi ư phục tác nghiệt dĩ tốc cô.  Chấp nhất kỉ chi kiến dĩ giá họa ư tha nhân, tham nhất th́ chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ.  Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm; Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.  Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến, nản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.  Dư tiền kí tuyển binh tái hiểm dĩ tồi ḱ phong, dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn ḱ thực.  Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngă quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dă; bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngă quân sở bại, thân tử ư Mă An chi sơn.  Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hăm nhi táng khu, nhị thập bát nhật Thượng thư Lư Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.  Ngă toại nghênh nhận nhi giải, bỉ tự đảo qua tương công.  Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi, ḱ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.  Viên tuyển t́ hưu chi sĩ, thân mệnh trảo nha chi thần.  Ẩm tượng nhi hà thủy càn, ma đao nhi sơn thạch khuyết.  Nhất cổ nhi ḱnh khô ngạc đoạn, tái cổ nhi điểu tán quân kinh.  Quyết hội nghĩ ư băng đê, chấn cương phong ư cảo diệp.  Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản, thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu cầm.  Cương thi tái Lượng Giang Lượng Sơn chi đồ, chiến huyết xích Xương Giang B́nh Than chi thủy.  Phong vân vị chi biến sắc, nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.  Ḱ Vân Nam binh vị ngă quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ; ḱ Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng vị ngă quân sở bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.  Lănh Câu chi huyết chử phiếu, giang thủy vị chi ô yết; Đan Xá chi thi sơn tích, dă thảo vị chi ân hồng.  Lưỡng lộ cứu binh kí bất toàn chủng nhi câu bại, các thành cùng khấu diệc tướng giải giáp dĩ xuất hàng.  Tặc thủ thành cầm, bỉ kí trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ; thần vơ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm. Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mă Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, kí độ hải nhi do thả hồn phi phách tán; tổng binh Vương Thông, Tham chính Mă Anh, hựu cấp mă sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.  Bỉ kí uư tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành; dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.  Phi duy mưu kế chi cực ḱ thâm viễn, cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.  Xă tắc dĩ chi điện an, sơn xuyên dĩ chi cải quan.  Càn khôn kí bĩ nhi phục thái, nhật nguyệt kí hối nhi phục minh.  Vu dĩ khai vạn thế thái b́nh chi cơ, vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.  Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dă.

Ô hô! Nhất nhung đại định, hất thành vô cạnh chi công; tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
 

Bá cáo hà nhĩ, Hàm sử văn tri.

 

B́nh Ngô Đại Cáo (dịch)

Phụng theo ư trời, hoàng thượng được viết:

 

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân; quân điếu phạt trước lo trừ bạo, như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đă lâu, nước non bờ cỏi đă chia, phong tục Bắc Nam cũng khác; từ Triệu, Đinh, Lư, Trần bao đời xây nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương; tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, song hào kiệt thời nào cũng có.  Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết chí lớn phải vong thân; cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô, sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mă.Việc xưa xem xét.  Chứng cớ c̣n ghi.  Nhân họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước ḷng dân oán hận, quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn, bọn gian tà c̣n bán nước cầu vinh.  Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ, dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế, gây thù kết oán trải mấy mươi năm, bại nhân nghĩa nát cả đất trời.  Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.  Người bi ép xuống biển ḍng lưng ṃ ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.  Kẻ bị đem vào núi đăi cát t́m vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.  Vét sản vật, bắt ḍ chim sả, chốn chốn lưới chăng.  Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.  Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ.  Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.  Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán, nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?  Nặng nề những nổi phu phen, tan tác cả nghề canh cửi.  Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi! Ḷng người đều căm giận, trời đất chẳng dung tha.

 

Núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dă nương ḿnh, ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống, đau ḷng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời, nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.  Quên ăn v́ giận, sách lược thao suy xét đă tinh, ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.  Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi, vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh. 

 

Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu, việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần, nơi duy ác hiếm người bàn bạc, tấm ḷng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông, cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm c̣n dành phía tả. 

 

Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như nh́n chốn bể khơi.  Tự ta, ta phải dốc ḷng, vội vă hơn cứu người chết đói.  Phần v́ giận quân thù ngang dọc, phần v́ lo vận nước khó khăn, khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, lúc Khôi Huyện quân không một đội.  Trời thử ḷng trao cho mệnh lớn, ta gắng trí khắc phục gian nan.  Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới, tướng sĩ một ḷng phụ tử, ḥa nước sông chén rượu ngọt ngào.  Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều. 

 

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo.  Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.  Sĩ khí đă hăng, quân thanh càng mạnh.  Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lư An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân.  Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại, tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.  Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm, Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.  Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đă phải bêu đầu, Mọt gian kẻ thù: Lư Lương cũng đành bỏ mạng.  Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy Mă Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.  Bó tay để đợi bại vong, giặc đă trí cùng lực kiệt, chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.  Tưởng chúng bết lẽ ăn năn, nên đă thay ḷng đổi dạ, ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại c̣n chuốc tội gây oan.  Giữ ư kến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác, tham công danh một lúc, để cười cho tất c thế gian.  Thằng nhăi con Tuyên Đức động binh không ngừng, đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem đầu chữa cháy, đang mùa tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại, năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.  Ta trước đă điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong, sau lại sai tướng chận đường, tuyệt nguồn lương thực.  Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế! ngày hai mươi, trận Mă Yên, Liễu Thăng cụt đầu.  Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong! ngày hăm tám, thượng thư Lư Khánh cùng kế tự vẫn.  Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá, bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau, lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc, sĩ tốt kén người hùng hổ, bề tôi chọn kẻ vuốt nanh, gươm mài đá, đá núi cũng ṃn, voi uống nước, nước sông phải cạn.  Đánh một trận, sạch không kinh ngạc, đánh hai trận, tan tác chim muông.  Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.  Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội, thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.  Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, B́nh Than máu trôi đỏ nước, ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi, thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.  Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật! nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.  Suối Lănh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc, thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đ́a máu đen.  Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp, quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng, tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, Thần Vũ chẳng giết hại, thể ḷng trời ta mở đường hiếu sinh, Mă Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mă Anh phát cho vài ngh́n cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.  Họ đă tham sống sợ chết mà ḥa hiếu thực ḷng, ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.  Chẳng những mưu kế ḱ diệu, cũng là chưa thấy xưa nay, xă tắc từ đây vững bền, giang sơn từ đây đổi mới, càn khôn bĩ rồi lại thái, nhật nguyệt hối rồi lại minh, ngàn năm vết nhục nhă sạch làu, muôn thuở nền thái b́nh vững chắc,âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiên đă lặng thầm phù trợ.

 

Một cỗ nhung y chiến thắng nên công oanh liệt ngàn năm, bốn phương biển cả thanh b́nh ban chiếu duy tân khắp chốn.

 

Xa gần bá cáo, ai nấy đều hay.

Người dịch (???)

 

Chú Thích:

Trong văn bản B́nh Ngô Đại Cáo Nguyễn Trăi viết rằng: "Toa Đô kư cầm ư Hàm Tử quan; Mă Nhi hựu ế ư Bạch Đằng hải..." Theo Việt Sử Toàn Thư th́ Toa Đô bị trúng tên chết ở Tây Kết và Ô Mă Nhi bị bắt ở Bạch Đằng Giang, phải chăng Nguyễn Trăi đă lầm?

*Bạch Đằng Giang cũng là nơi mà Ngô Quyền chém Hoàng Thao của quân Nam Hán!!!

HOME

Copyright@www.haivan.8m.net