ﻶ Hải Vân Sơn Trangﻶ Dạo Hải Vân Sơn Trangﻶ Liên Lạc Hải Vân Trang Chủﻶ Hải Vân Sổ Lưu Niệm

"Vũ vô kiềm tỏa nan lưu khách

Sắc bất ba đào vị nịch nhân..."

嘉韶 - Nguyễn Gia Thiều (Việt Nam 1741-1798)

供怨吟曲 - Cung Oán Ngâm Khúc

 

(1) Kiếp Má Hồng Thường Hay Phải Mệnh

Trải vách quế gió vàng hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng;
Oán chi những khách tiêu pḥng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào!

Duyên đă may cớ sao lại rủi?
Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang?
V́ đâu nên nỗi dở dang,
Nghĩ ḿnh, ḿnh lại thêm thương nỗi ḿnh!
Trộm nhớ thuở gây h́nh tạo hóa,

Vẻ phù dung một đóa khoe tươi;
Nhụy hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đă nhạt mùi thu dung.
Áng Đào Kiển đâm bông năo chúng,
Khóe thu ba dợn sóng khuynh thành;

Bóng gươm lấp loáng dưới mành,
Cỏ cây cũng muốn nổi t́nh mây mưa!
Ch́m đáy nước cá lờ đờ lặn,
Lửng da trời, nhạn ngẩn ngơ sa!
Hương trời đắm nguyệt say hoa,

Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật ḿnh.
Câu cẩm tú đàn anh họ Lư,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương,
Cờ tiên rượu thánh ai đang,
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm.

Cầm điếm nguyệt, phỏng tầm Tư Mă,
Địch lầu thu, đọ gă Tiêu Lang,
Dẫu mà tay múa, miệng xang,
Thiên tiên cũng ngoảnh nghê thường trong trăng.
Tài sắc đă vang lừng trong nước,

Bướm ong càng xao xác ngoài hiên,
Tai nghe nhưng mắt chưa nh́n,
Bệnh Tề Tuyên đă nổi lên đùng đùng.

Hoa xuân nọ c̣n phong nộn nhụy,
Nguyệt thu kia, chưa hé hàn quang,

Hồng lâu c̣n khóa then sương,
Thâm khuê c̣n giấm mùi hương khuynh thành.
Làng cung kiếm rấp ranh bắn sẻ,
Khách công hầu gấm ghé mong sao,
Vườn xuân bướm hăy c̣n rào,

Thấy hoa mà chẳng lối vào t́m hương.
Gan chẳng đá khôn đường há chuyển,
Mặt phàm kia dễ đến Thiên Thai?
Hương trời sá động trần ai,
Dẫu vàng ngh́n lạng dễ cười một khi.

 

Nghĩ Đến Kiếp Người Như Bóng Phù Du

Ngẫm nhân sự cớ chi ra thế?
Sợi xích thằng chi để vướng chân,
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn rảy nguội dần lửa duyên.
Ḱa thế cục như in giấc mộng.

Máy huyền vi mở đóng khôn lường!
Vẻ chi ăn uống sự thường,
Cũng c̣n tiền định khá thương, lọ là.
Đ̣i những kẻ thiên ma bách chiết,
H́nh th́ c̣n, bụng chết đ̣i nau!

Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đă mang tiếng khóc bưng đầu mà ra!
Khóc v́ nỗi thiết tha sự thế,
Ai bày tṛ băi bể nương dâu?
Trắng răng đến thuở bạc đầu,

Tử, sinh, kinh, cụ làm nau mấy lần?
Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc,
Lớp cùng thông như đốt buồng gan,
Bệnh trần đ̣i đoạn tâm can,
Lửa cơ đốt ruột dao hàn cắt da!

Gót danh lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong trần nắng nám mùi dâu,
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ,

Đương thế đồ gót rỗ khi khu,
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh.
Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi!

Ḷ cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.
Đền vũ tạ nhện giăng cửa mốc,
Thú ca lâu dế khóc canh dài,
Đất bằng bỗng rấp trông gai,

Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương?

 

Muốn Nương Cửa Phật Tu Hành

Mùi phú quí nhử làng xa mă,
Bả vinh hoa lừa gă công khanh,
Giấc Nam Kha khéo bất t́nh,
Bừng con mắt dậy, thấy ḿnh tay không!

Sân đào lư giâm lồng man mác,
Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng,

Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh.
Quyền họa phúc trời tranh mất cả,
Chút tiện nghi chẳng trả phần ai!

Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.
H́nh mộc thạch vàng kim ố cổ,
Sắc cầm ngư ủ vũ ê phong,
Tiêu điều nhân sự đă xong,

Sơn hà cũng huyễn, côn trùng cũng hư.
Cầu Thệ Thủy ngồi trơ cổ độ,
Quán Thu Phong đứng rũ tà huy,

Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.

Tuồng huyễn hóa đă bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau!
Trăm năm c̣n có ǵ đâu,
Chẳng qua một nắm cổ khâu xanh ŕ!
Mùi tục lụy dường kia cay đắng,

Vui chi mà đeo đẳng trần duyên?
Cái gương nhân sự chiền chiền,
Liệu thân này với cơ thiền phải nao.
Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật,
Mối thất t́nh quyết dứt cho xong,

Đa mang chi nữa đèo ḅng?
Vui ǵ thế sự, mà mong nhân t́nh!
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên,

Thoát trần một gót thiên nhiên,

Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.

 

Lúc Được Tuyển Làm Cung Phi

Ư cũng rắp ra ngoài đào chú,
Quyết lộn ṿng phu phụ cho cam!
Ai ngờ trời chẳng cho làm,
Quyết đem dây thắm mà giam bông đào!

Hẳn túc trái làm sao đây tá?
Hay tiền nhân hậu quả xưa kia?

Hay thiên cung có điều ǵ?
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi.
Ḱa điểu thú là loài vạn vật,

Dẫu vô tri cũng bắt đèo ḅng,
Có âm dương, có vợ chồng,

Dẫu từ thiên địa cũng ṿng phu thê.
Đường tác hợp trời kia giong ruổi,
Lọt làm sao cho khỏi nhân t́nh,

Thôi thôi ngoảnh mặt làm thinh,
Thử xem con tạo gieo ḿnh nơi nao?
Tay Nguyệt lăo khờ sao có một,
Bỗng tơ t́nh vướng gót cung phi,
Cái đêm hôm ấy, đêm ǵ?

Bóng dương lồng bóng đồ my trập trùng.
Khoa thược dược mơ ṃng thụy vũ,

Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu,

Cành xuân hoa chúm chím chào,
Gió đông thôi đă cợt đào ghẹo mai.

Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió,
Áo vũ kia lấp ló trong trăng,
Sanh ca mấy khúc vang lừng,
Cái thân Tây Tử lên chừng điện Tô.
Đệm hồng thúy thơm tho mùi xạ,

Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh,
Mây mưa mấy giọt chung t́nh,
Đ́nh trầm hương khóa một cành mẫu đơn.

Tiếng thánh thót cung đàn thúy dịch.
Giọng nỉ non ngón địch đan tŕ,

Càng đàn, càng địch, càng mê,
Càng gay gắt điệu, càng tê tái ḷng!
Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ,

Sắp song song đôi lứa nhân duyên,
Hoa thơm muôn đội ơn trên,

Cam công mang tiếng thuyền quyên với đời.

 

Lúc Được Vua Sủng Ái

Trên chín bệ mặt trời gang tấc,
Chữ xuân riêng sớm trực trưa chầu,
Phải duyên hương lửa cùng nhau,
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.

Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt,
Lúc cười sương cợt tuyết đền phong,
Đóa lê ngon mắt cửu trùng,
Tuy mày điểm nhạt nhưng ḷng cũng xiêu,
Vẻ vưu vật trăm chiều chải chuốt,

Ḷng quân vương chi chút trên tay,
Má hồng không thuốc mà say,
Nước kia muốn đổ, thành này muốn long!
Vườn Tây Uyển khúc trùng thanh dạ,
Gác Lâm Xuân điệu ngă đ́nh hoa,

Thừa ân một giấc canh tà,
Tờ mờ nét ngọc, lập ḷa vẻ son.
Trên trướng gấm chí tôn ṿi vọi,
Những khi nào gần gũi quân vương,
Dẫu mà ai có ngh́n vàng,

Đố ai mua được một tràng mộng xuân.
Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu,
Ghẹo hoa kia, lại nhíu gót sen,
Thân này uốn éo v́ duyên,
Cũng cam một tiếng thuyền quyên với người!

Lan mấy đóa lạc loài sơn dă,
Uổng mùi hương vương giả lắm thay!
Gẫm như cân trất duyên này,
Cam công đặt cái khăn này tắc ơ!
Tranh tỉ dực nh́n ưa chim nọ,

Đồ liên chi lần trỏ hoa kia,
Chữ đồng lấy đó mà ghi,
Mượn điều thất tịch mà thề bách niên.
Hạt mưa đă lọt miền đài các,
Những mừng thầm cá nước duyên may,

Càng lâu, càng lắm mùi hay,
Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm.
Ai ngờ bỗng một năm một nhạt,
Nguồn cơn kia chẳng tát mà vơi!
Thôi di đâu biết cơ trời,

Bỗng không mà hóa ra người vị vong!
Đuốc vương giả chí công là thế,
Chẳng soi cho đến khóe âm nhai!
Muôn hồng ngh́n tía đua tươi,
Chúa xuân nh́n hái một hai bông gần.

 

 

(2) Lúc Bị Vua Chán Bỏ

Vốn đă biết cái thân câu trơ,
Cá no mồi cũng khó nhử lên,
Ngán thay cái én ba ngh́n,
Một cây cù mộc biết chen cành nào?
Song đă cậy má đào chon chót,

Hẳn duyên tươi phận tốt hơn người,
Nào hay con tạo trêu ngươi,
Hang sâu chút hé mặt trời lại giâm!
Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần,

Khoảnh làm chi, bấy chúa xuân!
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi!
Lầu đăi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương thức ngủ thu phong,
Pḥng tiêu lạnh ngắt như đồng,

Gương loan bẻ nửa, giải đồng xẻ đôi,
Chiều ủ dột giấc mai trưa sớm,
Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ,
Thâm khuê vắng ngắt như tờ,
Cửa châu gió lọt rèm ngà sương gieo.

Ngấn phượng liễn cḥm rêu lỗ chỗ,
Dấu dương xa đám cỏ quanh co,
Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.
Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng,

Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền,
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u.
Tranh biếng ngắm trong đồ Tố nữ,
Mặt buồn trông trên cửa Nghiêm lâu,

Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng.
Đêm năm canh lần nương vách quế,
Cái buồn này ai dễ giết nhau,
Giết nhau bằng cái Lưu cầu,
Giết nhau bằng cái ưu sầu, độc chưa?

Tay Nguyệt lăo chẳng xe th́ chớ,
Xe thế này có dở dang không?
Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực ḿnh muốn đạp tiêu pḥng mà ra.

 

Nỗi Buồn Bực Kể Sao Cho Xiết

Nào lối dạo vườn hoa năm ngoái,

Đóa hồng đào hái buổi c̣n xanh ,
Trên gác phượng, dưới lầu oanh,
Gối du tiên hăy rành rành, song song.
Bây giờ đă ra ḷng rẻ rúng,
Để thân này cỏ úng tơ mành,

Đông quân sao khéo bất t́nh,
Cành hoa tàn nguyệt bực ḿnh hoài xuân.
Nào lúc tựa lầu Tần hôm nọ,
Cành liễu mành bẻ thuở đương tơ,
Khi trướng ngọc, lúc rèm ngà,

Mảnh xuân y hăy sờ sờ dấu phong.
Bây giờ đă ra ḷng ruồng rẫy,
Để thân này nước chảy hoa trôi!
Hóa công sao khéo trêu người?
Bóng đèn tà nguyệt nhử mùi kư sinh.

Cảnh hoa lạc nguyệt minh dường ấy,
Lửa hoàng hôn như cháy tấm son,
Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng,
Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa!
Buồn v́ nỗi nguyệt tà ai trọng?

Buồn v́ điều hoa rụng ai nh́n?
T́nh buồn cảnh lại vô duyên,
T́nh trong cảnh ấy, cảnh bên t́nh này.
Khi trận gió lung lay cành bích,
Nghe ŕ rào tiếng mách ngoài xa,

Mơ hồ nghĩ tiếng xe ra,
Đốt phong hương hả mà hơ áo tàn.
Ai ngờ tiếng dế ran ri rỉ,
Giọng bi thu gọi kẻ cô pḥng,
Vắng tanh nào thấy vân mồng,

Hơi thê lương lạnh ngắt song phi huỳnh.
Khi bóng thỏ chênh vênh trước nóc,
Nghe vang lừng tiếng giục bên tai,
Dè chừng nghĩ tiếng tiểu đ̣i,
Nghiêng b́nh phấn mốc, mà giồi má nheo.

Ai ngờ tiếng quyên kêu ra rả,
Điệu thương xuân khóc ả sương khuê,
Lạnh lùng nào thấy ủ ê,
Khí bi thương sực nức, hè lạc hoa.
Tiếng thúy điện cười già ra gắt,

Mùi quyền môn thắm rất nên phai!

 

Ḷng Chán Nản Than Thân Trách Phận

Nghĩ nên tiếng cửa quyền ôi,
Th́ thong thả vậy, cũng thôi một đời!
Ví sớm biết ḷng trời đeo đẳng,
Dẫu thuê tiền cũng chẳng buồn tênh!

Nghĩ ḿnh lại ngán cho ḿnh,
Cái hoa đă trót gieo cành biết sao?
Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm,
Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon,
Cùng nhau một giấc hoành môn,

Lau nhau ríu rít c̣ con cũng t́nh.
Ḿnh có biết phận ḿnh ra thế,
Giải kiết điều óe ọe làm chi,
Thà rằng cục kịch nhà quê,
Dẫu ḷng nũng nịu nguyệt kia hoa này!

Chiều tịch mịch đă gầy bóng thỏ,
Vẻ tiêu tao lại vơ hoa đèn,
Muốn đem ca tiếu giải phiền,
Cười nên tiếng khóc, hát nên giọng sầu.
Ngọn tâm hỏa đốt rầu nét liễu,

Giọt hồng băng thấm ráo làn son,
Dơ buồn đến thú cỏn con,
Trà chuyên nước nhất, hương dồn khói đôi.
Trong gang tấc mặt trời xa mấy!
Phận hẩm hiu nhường ấy v́ đâu?

Sinh ly đ̣i rất thời Ngâu,
Một năm c̣n thấy mặt nhau một lần.
Huống chi cũng lạm phần son phấn,
Luống năm năm chực phận buồng không!
Khéo vô duyên với cửu trùng!

Thắm nào nhuộm lại tơ hồng cho tươi?
Vườn thượng uyển hoa cười với nắng,
Lối đi về ai chẳng chiều ong?
Doành Nhâm một giải nông nông,
Bóng dương bên ấy, đứng trông bên này.

T́nh rầu rĩ khôn khuây nhĩ mục,
Chốn pḥng không như giục mây mưa,
Giấc chiêm bao những đêm xưa,
Giọt mưa cửu hạn c̣n mơ đến rày.

 

Nỗi Oán Hận Cảnh Buồn Rầu

Trên chín bệ có hay chăng nhẽ?

Khách quần thoa mà để lạnh lùng!
Thù nhau chi, hỡi đông phong?
Góc vườn dăi nắng cầm bông hoa đào.
Tay tạo hóa cớ sao mà độc,
Buộc người vào kim ốc mà chơi.

Chống tay ngồi ngẫm sự đời,
Muốn kêu một tiếng cho dài, kẻo căm!
Nơi lạnh lẽo, nơi xem gần gặn,
Há phai son nhạt phấn ru mà!
Trêu ngươi chi bấy trăng già?

Sao cho chỉ thắm mà ra tơ mành?
Ḷng ngán ngẩm buồn tênh mọi nỗi,
Khúc sầu tràng bối rối đường tơ,
Ngọn đèn pḥng động đêm xưa,
Cḥm hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn.

Mà lượng thánh đa đoan kíp mấy,
Bỗng ra ḷng rún rẩy v́ đâu?
Bơ già tỏ nỗi xưa sau,
Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự cùng?
Đem phong vũ lạnh lùng có một,

Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh,
Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh,
Vách sương nghi ngút, đèn xanh lờ mờ.
Mắt chưa nhắp, đồng hồ đă cạn,
Cảnh tiêu điều ngao ngán dường bao!

Buồn này mới gọi buồn sao?
Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu t́nh!
Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi,
Những hương sầu phấn tủi sao xong!
Pḥng khi động đến cửu trùng,

Giữ sao cho được má hồng như xưa.

 

Nguyễn Gia Thiều

Ghi Chú:

Tác Giả: Ôn Như Hầu tức Nguyễn Gia Thiều tiên sinh, vốn là người làng Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại, tỉnh Bắc Ninh (nay là phủ Thuận Thành), thân phụ là Nguyễn Gia Cư, thân mẫu là bà Ngọc Tuân Quỳnh Liên công chúa, con gái chúa Trịnh Hy Tô. Nguyễn tiên sinh vốn con ḍng dơi trâm anh, sinh năm 1741, có tính chất thông minh dĩnh ngộ khác thường, khi trẻ ngoài sự học văn c̣n theo học vơ, tinh thông nghề cung kiếm, 19 tuổi được tuyển vào cung trung làm chức Hiệu úy quản binh mă, có chiến công, được phong tước Ôn Như Hầu.

 

Từ phong hầu về sau tiên sinh lại chuyên nghiên cứu luyện tập văn chương và thiên văn địa lư, khảo cứu đạo Phật, đạo Tiên, thường tự xưng là Hy Tôn Tử và Nhu Ư Thuyền, giao du cùng các nhà triết học, thi học, lấy sự nhàn hạ khoáng dật phong lưu tiêu sái làm chí thú, ngâm phong vinh nguyệt làm thích, không quản việc triều đ́nh, nên mất sự tín nhiệm của nhà nước. Vả cũng có nhiều người đương thời không ưa v́ ghanh tài năng nên gièm pha, tiên sinh cũng chẳng quan tâm. đến khi Tây Sơn lấy Bắc Hà, th́ tiên sinh đi ở ẩn không chịu ra làm quan, và thọ bệnh mất năm 1798, hưởng thọ 58 tuổi (ngày mồng 9 tháng 5 năm Mậu Ngọ).

 

Tác Phẩm: Những tác phẩm c̣n để lại, về phần chữ nho có bộ Tiền Hậu Thi Tập, nhưng chưa t́m thấy, chỉ c̣n khẩu truyền một đôi bài. Về quốc âm th́ c̣n Tây Hồ Thi Tập, Bộ Tứ Trai và Cung Oán Ngâm Khúc. Tiên sinh rất tinh nghề thanh nghệ luật (nghề làm thơ), đă d́u dắt phái thi học đời hậu Lê được lắm nhà thơ hay. Ở tập Chuyết thập tạp chí của ông Lư văn Phức chép truyện Ôn Như Hầu có nói rằng: "Nhất thị ứng khẩu thành tụng, ngữ ngữ khả nhân, nhất thị thiên đoàn bách luyện, ngữ ngữ kinh nhân". Nghĩa là: một là ra lời nói thành câu thơ, lời lời thảy nghe được, hai là ngh́n lần nhồi nặn, trăm lần nung luyện ra câu thơ, lời lời khiến người nghe phải sợ... tức là tiên sinh có tài nhanh chóng cũng hay và có công trau nắn càng hay.

Tài lành dễ đâu chôn lấp được, một thiên "Cung Oán Ngâm Khúc" nay c̣n truyền xa. Hai chữ Cung Oán là sự oán hờn nơi cung cấm của các cung phi, cung tần đă từng được vua yêu rồi lại bị ghét bỏ, v́ lời gièm pha ghen tuông lẫn nhau; hoặc có người đă chọn mà suốt đời không được hạnh sủng, nên đă thốt ra nỗi oán hờn. Trải xem các đời từ xưa nơi cung cấm, cung nhân nhiều đến số ba bốn ngh́n, mà trong số ấy thường chỉ có vài người được sủng ái, nên phần nhiều cung nhân có tài học tự làm ra lời cung oán, hoặc các nhà thơ đặt ra lời cung oán, mượn thân phận của cung nữ mà tỷ nghĩ thân phận ḿnh, cũng đề là cung oán. Về sau hai chữ "Cung Oán" thành một cái nhan đề, chuyên nói sự oán hờn của cung nữ. "Cung Oán Ngâm Khúc" sau đây là một khúc ngâm về nỗi oán hờn của cung nhân mà Ôn Như Hầu tiên sinh đă mượn t́nh trạng cung phi để tự ví thân phận ḿnh; khúc ngâm này dùng điệu "song thất lục bát".

HOME

Copyright@www.haivan.8m.net