|
"Đỗ Vũ than đầu minh quốc quốc
Chá Cô giang thượng khiếu gia gia..."
(Việt Nam)
Thiên Đô Chiếu
Tích Thương
gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đăi Thành Vương tam tỉ. Khởi
Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu
kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử
tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ
diên trường, phong tục phú phu.
Nhi Đinh Lê nhị gia, năi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, vơng đạo Thương
Chu chi tích, thường an quyết
ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tín hao
tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm
thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao
Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc
long bàn hổ cứ chi thế. Chính
Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bội chi nghi. Kỳ địa
quảng nhi thản b́nh, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn
điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lăm Việt bang,
tư vi tháng địa. Thành tứ
phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
Trẫm dục
nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?
Chiếu
Dời Đô
Xưa nhà
Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua
Thành Vương cũng ba lần dời đô.
Phải đâu các vua thời Tam Đại theo ư riêng ḿnh mà tự tiện
chuyển dời? Chỉ v́ muốn đóng đô ở nơi
trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên
vâng mệnh trời, dưới theo
ư dân, nếu thấy thuận tiện th́ thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài,
phong tục phồn thịnh. Thế mà
hai nhà Đinh, Lê lại theo ư riêng ḿnh, kinh thường mệnh trời, không
noi theo dấu cũ Thương, Chu
cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không
được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm
họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót
về việc đó, không thể không
đổi dời.
Huống ǵ
thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: ở vào nơi trung tâm
trời đất; được thế rồng cuộn hổ
ngồi. Đă đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nh́n sông dựa
núi. Địa thế rộng mà bằng;
đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt;
muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa.
Thật là chốn tụ hội trọng yếu của
bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn
đời.
Trẫm muốn
dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chổ ở. Các khanh nghĩ thế
nào?
Nguyễn Đức Vân
Chú Thích:
I) Lư Công Uẩn viết bài chiếu này để tỏ ư định dời đô từ Hoa Lư (là
nơi ẩm thấp, chật hẹp) ra
thành
Đại La. Tương truyền khi thuyền vua đến dưới thành th́ có
điềm tốt; con rồng vàng bay
lên, vua nhân
đó đổi tên là Thăng Long.
II) Bàn Canh: vua thứ mười bảy của nhà Thương, một triều đại rất xưa
trong lịch sử Trung Hoa; năm lần dời đô nói việc các vua nhà Thương dời đô từ đất Bặc
(Thương Khâu, Hà Nam) sang đất
Hiêu
(Huỳnh Trạch, Hà Nam), đất Tương (An Dương, Hà Nam), đất Cảnh (Hà
Tân, Sơn Tây),
đất H́nh
(H́nh Đài, Hà Bắc), và đất Ân (Yển Sư, Hà Nam).
III) Thành Vương: vua thứ ba nhà Chu, triều đại cổ tiếp nối nhà
Thương; ba lần dời đô nhắc đến
việc
Chu Văn Vương dựng nghiệp ở đất Kỳ (Thiểm Tây), Chu Vũ Vương
dời đô đến Trường Yên
(Thiểm
Tây), và Chu Thành Vương lại dời đô sang Lạc Ấp (Hà Nam).
Đúng ra là hai lần dời đô
chớ không
phải ba!
IV) Tam Đại: tên chung chỉ ba triều đại cổ ở Trung Hoa, nhà Hạ do Hạ
Vũ sáng lập, nhà Thương
do
Thành Thang dựng lên, và nhà Chu do Chu Văn Vương khởi thủy.
V) nơi đây: chỉ Hoa Lư, kinh đô của nhà Đinh do Đinh Bộ Lĩnh sáng
lập và nhà Tiền Lê do Lê
Hoàn
sáng lập. Lúc Lư Công Uẩn mới lên ngôi, kinh đô của nhà Lư vẫn
c̣n ở đó.
VI) Cao Vương: tức viên quan cai trị nhà Đường Cao Biền, tên tự
Thiên Lư, làm đô hộ sứ châu
Giao
từ 864 đến 875. Cao Biền xây thành Đại La thuộc vùng đất Hà
Nội khoảng năm 886.
Tương truyền
Cao Biền giỏi địa lư, tướng số, bùa phép,
có tài gieo đậu thành binh và biết trấn
yểm các nơi có long
khí. |