"Chư pháp
thường bản lai
Thường tự tịch
diệt tướng..."
SÁM HỐI SÁU
CĂN
(Kinh Nhật Tụng)
Chí tâm sám hối:
Chúng con từ vô thủy kiếp đến
nay...
Bỏ mất bản tâm, không biết
chính đạo.
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn
lầm;
Không sám lỗi trước, khó tránh
lỗi sau.
NGHIỆP CĂN MẮT LÀ:
Nhân ác xem kỹ, nghiệp thiện
coi khinh;
Lầm nhận hoa giả, quên ngắm
trăng thật.
Yêu ghét nổi dậy, đẹp xấu
tranh giành;
Chợt mắt dối sanh, mờ đường
chánh kiến.
Trắng qua xanh lại, tía phải
vàng sai;
Nh́n lệch các thứ, nào khác kẻ
mù.
Gặp ngừơi sắc đẹp, liếc trộm
nh́n ngang;
Loà mắt chưa sanh, bản lai
diện mục;
Thấy ai giàu có, giương mắt
măi nh́n;
Gặp kẻ bần cùng, lờ đi chẳng
đoái.
Người dương chết choc, nước
mắt ráo khô;
Thân quyến qua đời, đầm đ́a lệ
máu.
Hoặc đến Tam Bảo, hoặc vào
chùa chiền;
Gần tượng thấy kinh, mắt không
thèm ngó.
Pḥng Tăng điện Phật, gặp gỡ
gái trai;
Mắt liếc mày đưa, đam mê sắc
dục.
Không ngại Hộ Pháp, chẳng sợ
Long Thần;
Trố mắt ham vui, đầu chưa từng
cúi.
Những tội như thế, vô lượng vô
biên;
Đều từ mắt sanh, phải sa điạ
ngục.
Trải hằng sa kiếp, mới được
làm người;
Dù được làm người, lại bị mù
chột.
NGHIỆP CĂN TAI LÀ:
Ghét nghe chánh pháp, thích
lắng lời tà;
Mê mất gốc chơn, đuổi theo
ngoại vọng.
Sáo đàn inh ỏi, bảo khúc long
ngâm;
Văng vẳng mỏ chuông, coi như
ếch nhái.
Câu ví bài vè, bổng nhiên để
dạ;
Lời kinh câu kệ, không chút
lắng tai.
Thoảng nghe khen hảo, khấp
khởi mong cầu;
Biết rỏ lời lành, đâu từng ưng
nhận.
Vài ba bạn rượu, năm bảy khách
chơi;
Tán ngắn bàn dài, châu đầu
nghe thích.
Hoặc gặp thầy bạn, dạy bảo
đinh ninh;
Những điều hiếu trung, che tai
bỏ mặc.
Hoặc nghe tiếng xuyến, bổng
nẫy long dâm;
Nghe nửa câu kinh, liền như
tai ngựa.
Những tội như thế, vô lượng vô
biên;
Đầy ắp bụi trần, kể sao cho
xiết.
Sau khi mạng chung, rơi ba
đường ác;
Hết nghiệp thọ sanh, lại làm
người điếc.
NGHIỆP CĂN MŨI LÀ:
Thường tham mùi lạ, trăm thứ
ngạt ngào;
Chẳng thích chân hương, năm
phần thanh tịnh.
Lan xông xạ ướp, chỉ thích t́m
ṭi;
Giới định hương huân, chưa
từng để mũi.
Trầm đàn thiêu đốt, đặt trước
phật đài;
Nghểnh cổ hít hơi, trộm hương
phẩy khói.
Theo dơi hương trần, long thần
chẳng nể;
Chỉ thích mùi sằng, trọn không
chán mỏi.
Mắt đào má hạnh, lôi kéo chẳng
ĺa;
Cây Giác Hoa Tâm, Xây đi không
đoái.
Hoặc ra phố chợ, hoặc vào bếp
sau;
Thấy bẩn thèm ăn, ưa nhơ kiếm
nuốt.
Chẳng ngại tanh hôi, không
kiên hành tỏi;
Mê măi không thôi, như lợn nằm
ổ.
Hoặc chảy nước mũi, hoặc hỉ
đàm vàng;
Bôi cột quẹt thềm, làm nhơ đất
sạch.
Hoặc say nằm ngủ, điện phật
pḥng tăng;
Hai mũi thở hơi, xông kinh nhơ
tượng.
Ngửi sen thành trộm, nghe mùi
thành dâm;
Không biết không hay, đều do
nghiệp mũi.
Những tội như thế, vô lượng vô
biên;
Sau khi mạng chung, đọa ba
đường khổ.
Trải ngh́n muôn kiếp, mới được
làm người;
Dù được làm người, quả báo
bệnh mũi.
NGHIỆP CĂN LƯỠI LÀ:
Tham đủ mọi mùi, thích xét
ngon dở;
Nếm hết các thứ, biết rơ béo
gầy.
Sát hại sanh vật, nuôi dưỡng
thân ḿnh;
Quay rán cá chim, nấu hầm cầm
thú.
Thịt tanh béo miệng, hành tỏi
ruột xông;
Ăn rồi nữa, nào thấy no lâu.
Hoặc đến đàn chay, cầu Thần lễ
Phật;
Cố cam bụng đói, đợi lúc việc
xong.
Sáng sớm ăn chay, cơm ít nước
nhiều;
Giống hệt người đau, gắng nuốt
thuốc cháo.
Mắt đầy mỡ thịt, cười nói hân
hoan;
Rượu chuốt cơm mời, nóng thay
nguội đổi.
Bày tiệc đăi khách, cưới gả
cho con;
Giết hại chúng sanh, v́ ba tất
lưỡi.
Nói dối bày điều, thêu dệt bịa
thêm;
Hai lưỡi bỗng sanh, ác khẩu
dấy khởi.
Chửi mắng tam bảo, nguyền rủa
mẹ cha;
Khinh khi hiền thánh, lừa dối
mọi người.
Chê bai người khác, che dấu
lỗi minh;
Bàn luận cổ kim, khen chê nầy
nọ.
Khoe khoang giàu có, lăng nhục
người nghèo;
Xua đuổi tăng ni, chửi mắng
tôi tớ.
Lời dèm thuốc độc, nói khéo
tiếng đàn;
Tô vẽ điều sai, nói không
thành có.
Oán hờn nóng lạnh, phỉ nhổ non
sông;
Tán dóc tăng pḥng, ba hoa
Phật điện.
Những tội như thế vô lượng vô
biên;
Ví như cát bụi, đếm không thế
cùng.
Sau khi mạng chung, vào ngục
bạt thiệt;
Cày sắt kéo dài, nước đông rót
măi.
Quả báo hết rồi, muôn kiếp mới
sinh;
Dù được làm người, lại bị căm
bặt.
NGIỆP CĂN THÂN LÀ:
Tinh cha huyết mẹ, chung hợp
nên h́nh;
Năm tạng trăm hài, cùng nhau
kết hợp.
Chấp cho là thật, quên mất
pháp thân;
Sinh dâm, sát, trộm bèn thành
ba nghiệp...
1) NGHIỆP SÁT SANH LÀ:
Luôn làm bạo ngược, chẳng khởi
nhân từ;
Giết hại bốn loài, đâu biết
một thể.
Lầm hại cố giết, tự làm dạy
người;
Hoặc làm thầy bùa, đem về ếm
đối.
Hoặc làm thuốc độc, để hại
sanh linh;
Chỉ cốt hại người, không hề
thương vật.
Hoặc đốt núi rừng, lấp cạn khe
suối;
Buông chài bủa lưới, xuưt chó
thả chim.
Thấy nghe tùy hỷ, niệm dấy
tưởng làm;
Cử động vận hành, đều là tội
lỗi.
2) NGHIỆP TRỘM CẮP LÀ:
Thấy tài bảo người, thầm khởi
tâm tà;
Phá khóa cạy then, sờ bao ṃ
túi.
Thấy của thường trụ, long dấy
khởi tham;
Trộm của nhà chùa, không sợ
thần giận.
Không những vàng ngọc, mới mắc
tội to;
Ngọn cỏ cây kim, đều thành
nghiệp trộm.
3) NGHIỆP TÀ DÂM LÀ:
Ḷng mê nhan sắc, mắt đắm phấn
son;
Chẳng đoái liêm trinh, riêng
sanh ḷng dục.
Hoặc nơi đất phật, chánh điện
pḥng tăng;
Trai gái cùng nhau, đụng chạm
đùa giỡn.
Tung hoa ném quả, đạp cẳng kề
vai;
Khoét ngạch trèo tường, đều là
dâm nghiệp.
Những tội như thế, vô lượng vô
biên;
Đến lúc mệnh chung, đều vào
địa ngục.
Gái nằm giường sắt, trai ôm
cột đồng;
Muôn kiếp tái sinh, lại chịu
tội báo.
NGHIỆP Ư CĂN LÀ:
Nghĩ vơ nghĩ vẫn, không lúc
nào dừng;
Mắc mưu t́nh trần, kẹt tâm
chấp tướng.
Như tằm kéo kén, càng buộn
càng bền;
Như bướm lao đèn, tự thiêu tự
đốt.
Hôn mê chẳng tỉnh, điên đảo
dối sinh;
Năo loạn tâm thần, đều do ba
độc...
1) TỘI KEO THAM LÀ:
Âm mưu ghen ghét, keo cú vét
vơ;
Mười vốn ngàn lời, c̣n cho
chưa đủ.
Cửa chứa tựa sông, long như hủ
chảy;
Rót vào lại hết, nên nói chưa
đầy.
Tiền mục, lúa hư, không cứu
đói rét;
Lụa là chất đống, nào có giúp
ai.
Được người mấy trăm, chưa cho
là nhiều;
Mất ḿnh một đồng, tưởng như
hao lớn.
Trên từ châu báu, dưới đến tơ
gái;
Kho đụn chất đầy, chưa từng bố
thí.
Bao nhiêu sự việc, ngày tính
đêm lo;
khổ tứ lao thần, đều từ tham
nghiệp.
2) TỘI NÓNG GIẬN LÀ:
Do tham làm gốc, lửa giận tự
thiêu;
Quắc mắt quát to, tiêu tan ḥa
khi.
Không riêng người tục, cả đến
thầy tu;
Kinh luận tranh giành, cùng
nhau công kích.
Chê cả sư trưởng, nhiếc đến mẹ
cha;
Cỏ nhẫn héo vàng, lửa độc rực
cháy.
Buông lời hại vật, cất tiếng
hại người;
Không nhớ từ bi, chẳng theo
luật cấm.
Bàn thiền tợ thánh, trước cảnh
như ngu;
Dầu ở cửa không, chưa thành vô
ngă.
Như cây sanh lửa, lửa cháy đốt
cây;
Những tội trên đây, đều do
nghiệp giận.
3) TỘI NGU SI LÀ:
Căn tánh đần độn, ư thức tối
tăm;
Chẳng hiểu tôn ti, không phân
thiện ác.
Chặt cây hại mạng, giết gấu
gảy tay;
Mắng phật chuốc ương, phun
trời ướt mặt.
Quên ơn quên đức, bội nghĩa
bội nhân;
Không tỉnh không xét, đều do
si nghiệp.
Những tội như thế, rất nặng
rất sâu;
Đến lúc mạng chung, rơi vào
địa ngục.
Trải ngàn muôn kiếp, mới được
thọ sanh;
Dù được thọ sanh, lại mắc ngu
báo.
Nếu không sám hối, đâu được
tiêu trừ;
Nay trước
Phật đài, thảy đều sám hối. |